Suy Niệm 1 Lm Tiến Lãng, DCCT
×
Ngày I tháng Giêng
Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời
(Lễ trọng)
Lm Tiến Lãng, DCCT
- Trước khi có dương lịch như hiện nay, Giáo hội Rôma đã có thói quen dành ngày cuối của tuần Bát nhật Giáng sinh để đặc biệt mừng tước hiệu Mẹ Thiên Chúa, như bông hoa trổ sinh từ mầu nhiệm Thiên Chúa nhập thể.
- Hôm nay cũng là ngày kính nhớ việc đặt tên Giêsu :
« Khi Hài nhi được đủ tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ cắt bì, người ta đặt tên cho Hài nhi là Giêsu ; đó là tên mà sứthàn đã đặt, trước khi Hài nhi thành thai trong lòng mẹ » (Lc 2, 21)
- Ngày nay, lễ nhằm ngày Tết dương lịch cũng giúp ta biết dâng hiến năm tháng trôi qua, với những vui buồn, những vận rủi may, cho đấng là chủ của thời gian.
- Ngày I cũng là ngày cầu nguyện cho Hòa bình thế giới, để cho Tin-mừng Giáng sinh được trọn vẹn :
« Vinh quang Thiên Chúa trên trời cao thẳm,
và bình an dưới thế cho những kẻ Người thương. »
Bên nôi Hài nhi, Đức Mẹ có mặt để chỉ đường cho chúng ta biết tìm về Tinh yêu và Bình an của Thiên Chúa.
|
Suy Niệm 2 Sưu Tầm
×
Danh hiệu Mẹ Thiên Chúa
Lễ Mẹ Thiên Chúa
Lc 2, 16-21
Sưu Tầm
Tám ngày sau lễ Giáng sinh, ngày 1 tháng 1, trong khi chúng ta chúc nhau năm tốt lành, Giáo Hội mừng lễ Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa. Và chúng ta ước nguyện đi xa hơn vào huyền nhiệm Đức Kitô. Bởi vì mỗi lần Giáo Hội nói với chúng ta về Đức Maria, chính là để nói về Đức Giêsu. Chúng ta có khẳng định quá đáng, khi chúng ta nói, trong kinh Kính Mừng Maria: Thánh Maria, Mẹ Thiên Chúa? Phải chăng một tạo vật có thể là mẹ Thiên Chúa? Phải chăng Thiên Chúa lại sinh ra từ một người đàn bà, như Thánh Phaolô nói trong bài đọc thứ hai hôm nay (Gl 4,4).
Khi các mục đồng đến Bê-lem, họ gặp Bà Maria, ông Giuse, cùng Hài nhi đặt năm trong Máng cỏ.
Các mục đồng hết sức đơn thành, ở những vùng sườn đồi Bê-lem, chạy vội đến để xác minh sứ điệp mà thiên thần truyền cho họ: "một Đấng Cứu độ được sinh ra cho các người; Người là Đức Kitô và là Chúa...". Chính là Hài nhi mang ba danh hiệu ấy mà họ tìm đến. Ba danh hiệu trang trọng, thuộc về Thiên Chúa : Đấng Cứu Độ, Đấng chịu Xức Dầu, Đức Chúa.
Như vậy điều đáng chú ý nhiều hơn nữa là Luca dường như xem thường Hài nhi, khi trưng dẫn Người cuối cùng...và cũng đặt người đàn ông, ông Giuse, xuống thứ hai vào thời mà người đàn bà không có giá trị ngang bằng. Họ khám phá ra Maria"... Trong cái viễn tượng đảo lộn này, có một cuộc cách mạng thằn học và nhân bản nho nhỏ.
Maria! Danh hiệu của bà là Mẹ Thiên Chúa đã chỉ được xác định ở Công đồng Êphêsô năm 430. Nhưng từ rất lâu, lòng sùng kính bình dân đã dám gọi Đức Maria là “theotokos" "Mẹ Thiên Chúa". Và vào thời đó khi các giám mục chính thức công nhận danh hiệu này, thì cả thành phố Ê-phê-sô hoan hỉ và xuống phố lúc nửa đêm để rước đuốc mừng lễ.
Cái mà các nhà thần học tìm kiếm, về mặt trí thức, từ bốn thế kỷ qua, thì về bản chất nó đã được sống nơi tất cả những người chỉ biết đến sự lắng nghe Tin Mừng. Các Công đồng chỉ có vai trò xác định bằng ngôn ngữ khoa học những điều đã gợi ra từ trong Tân ước. Ngoài ra còn phải đợi đến hai mươi năm nữa, thì Cộng đồng Can-xê-đoan sau cùng năm 451 mới xác định huyền nhiệm của Đức Giêsu và Đức Maria. Đây là văn bản tín điều, văn bản nổi tiếng nhất của lịch sử các Công đồng: Tất cả, chúng tôi đồng lòng tuyên xưng, một Chúa Con độc nhất và luôn luôn là một, Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, hoàn toàn về thiên tính, hoàn toàn về nhân tính, Thiên Chúa thật và người thật, được cấu thành bởi một linh hồn có lý trí và một thân xác đồng bản tính với Chúa Cha do thiên tính, đồng bản tính với chúng ta bởi nhân tính, tất cả đều giống như chúng ta trừ tội lỗi (Dt 4,15), được sinh ra bởi Chúa Cha, trước các thế kỷ theo thiên tính, được sinh ra trong những ngày cuối cùng này vì chúng ta và để cứu độ chúng ta, bởi Đức Maria, Mẹ trinh nguyên của Thiên Chúa theo nhân tỉnh: một và cùng một Chúa Kitô duy nhất, Con độc nhất, mà chúng ta phải nhận biết trong hai bản tính không lẫn lộn, không thay đổi, không phân lý, không tách biệt... “Đấy là tấm giấy chứng minh kỳ diệu và rõ rệt" về Đức Giêsu Na-da-rét, về Mẹ Người, Đức Maria.
Họ tìm ra Bà Maria và ông Giuse, cùng với Hài nhi đặt nằm trong máng cỏ.
Cần phải lặp lại những từ này sau khi đã nghe xác định trang trọng về đức tin. như thế chúng ta hiện đồng trước một trong hai phương diện của Đức Giêsu, nhân tính thực của người. Các mục đồng trông chờ tìm thấy một Đấng Cứu độ Kitô Chúa" (Lc 2,11), và chỉ tìm thấy có thế: một hài nhi trong chuồng bò lừa, đặt trong máng cỏ dành cho súc vật. Một Hài nhi trên nệm rơm! Thiên Chúa lập tức tự mạc khải như một vị hoàn toàn khác: thoạt đầu, Người khác với cái mà ta tưởng tượng về Người. Người đã hiện ra như quá gần gũi, ngay từ đầu, Người mang tính người đến nỗi nhiều người không nhận ra Người, chính vì Người bị che khuất đối với người thân tín nhất của nhân loại chúng ta.
Vâng, Giao Ước giữa Thiên Chúa và con người mà Cựu ước, Tân ước nói tới, ngay từ đầu, không huyênh hoang, đã nói với chúng ta là nó đi đến đâu: hợp nh6át không thể xé bỏ được, không lẫn lộn, không phân ly, không tách biệt.
Tất cả thái độ tôn giáo được hàm chứa như mầm mống trong điều mạc khải này: người ta không thể miệt thị vật chất thân xác, từ khi Thiên Chúa "nhập thể trong cung lòng trinh nữ Maria". Không có cái gì là phàm tục. Tất cả đều trở nên linh thánh, nghĩa là đôi khi hoàn toàn "nhân bản" và hoàn toàn "thiên bản": lớn lên chín tháng trong bụng mẹ, sinh ra, ngủ nghỉ, ăn uống, học đi và tập nói, chữa lành bệnh nhân, lên tiếng công khai, yêu mến bạn bè, thức dậy sớm ban sáng để cầu nguyện, chịu đau đớn, chết...những thực tại nhân thiên bản, những thực tại linh thánh. Và Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, thì giống như một bảo đảm cho sự kết hợp không thể phân ly của Thiên Chúa và con người trong bản vị độc nhất của Đức Giêsu.
Thấy thế, họ liền kể lại điều đã nói với họ về Hài nhi này.
Điều họ đã được loan báo, chính là "một Đấng Cứu Độ, được sinh ra cho các anh, người là Chúa Kitô. Họ đơn sơ đến nói sứ điệp của họ, tức là nhưng lời nói mà họ nghe thấy.
Các họa sĩ thuộc mọi thời đại đã diễn dịch câu nói Tin Mừng này khi trưng bày một bức tranh "Sự thờ kính của các mục đồng". Thực sự, đúng hơn các mục đồng đã giảng một bài cho Đức Maria, bằng cách nói Tin Mừng cho bà, tin lành mà họ nhận được. Bây giờ, trong câu này chúng ta thấy có phương diện thứ hai của Đức Giêsu, thiên tính đích thực của người: về Hài nhi này, các thiên thần đã nói với chúng ta rằng: "Người là Đức Kitô và là Chúa?". Đó là một tuyên xưng đức tin và từ đó đến thờ kính thì không xa: các bức tranh của các họa sĩ không lầm lẫn.
Nghe các người chăn chiên thuật truyện, ai cũng ngạc nhiên. Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng.
Ngôn từ Hy Lạp của Luca còn mạnh mẽ hơn nhiều: mọi người ai cũng lấy làm lạ lùng.
Thế nhưng, có cần phải thấy một đối lập mà Luca muốn trình bày giữa thái độ tổng quát và thái độ của Maria chăng? Quả thực đúng là ông chỉ nhấn mạnh đến cách hành sử của bà thôi: Bà không chỉ lạ lùng mà còn suy niệm Dù không hiểu nhiều hơn các mục đồng về huyền nhiệm xảy đến cho mình, phải chăng người ta không thể nghĩ rằng từ đáy lòng mình Đức Maria nói lại tiếng xin vâng của đức tin trước sự mới lạ bất ngờ của Hài nhi này sao? Luca không ngừng tôn vinh giá trị của Maria.
Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ.
Chúng ta luôn luôn cố giản lược huyền nhiệm về Đức Giêsu, bằng các đơn giản hóa đi. Hoặc là người ta nhân bản hóa đức Giêsu khi chỉ nhìn thấy người là một người có thiên tài hoặc người ta linh thiêng hóa người bằng cách chối từ những khuyết điểm trong nhân tính của người. Cạnh các mục đồng, những con người đơn sơ, đã trông thấy và đã nghe thấy. Họ đã xem thấy một nhân tính hoàn toàn bình thường, và nghe thấy một sứ điệp rất phi thường. Và họ không chỉ muốn dừng lại ở những dáng vẻ bên ngoài: họ tôn vinh và ca tụng Thiên Chúa.
Khi Hài nhi được đủ tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm phép cắt bì, người ta đặt tên cho Hài nhi là Giêsu...
Hài nhi Bê-lem là một người thực bé mọn, gắn liền với một truyền thống, một văn hóa và hệ thống tập tục. Đó là một bé trai, người dược ghi dấu vào xác thịt dành cho tất cả những người nam của dân tộc này. Vâng, một nhân tính thực sự, mà trước đó người ta không thể không thấy được. Nhưng tên của trẻ thơ này mang những vấn đề mới về căn tính của cậu: tại sao trời cứ phải đặt cái tên Thiên Chúa Cứu Độ, Yeshoua, Giêsu? Tại sao?
Người ta đặt tên cho Hài nhi là Giêsu. Đó là tên mà sứ thần đã đặt cho Người trước khi Người được thụ thai trong lòng mẹ.
Theo Luca, việc đặt tên này chỉ là một cơ hội bổ sung để làm nổi bật Maria: tác giả nhấn mạnh rằng Maria, Mẹ Người, đã nhận tên con mình "trước khi Người được thụ thai trong lòng".
Công đồng Vatican II, tiếp theo một truyền thống lâu dài của Giáo Hội, đã trình bày Đức Maria như một gương mẫu của Giáo Hội, người đầu tiên trong các tín hữu. Và trong trang Tin Mừng này chúng ta thực sự vừa mới nhận ra rằng bà là người đầu tiên đón nhận Lời Chúa và suy niệm trong lòng mình... và bà là người đầu tiên có lời tuyên xưng cơ bản về lòng tin của chúng ta: Thiên Chúa Cứu Độ!
Trong ngày đầu tiên của năm mới, tất cả sự mới mẻ của niềm tin Kitô giáo được Đức Maria nhắc lại cho chúng ta. Sự tân kỳ của Đức tin của các hữu, chính là không phải chỉ tin vào Thiên Chúa. Điều đó, phần đông mọi người vẫn thế, nhất là những người theo một trong những tôn giáo lớn trên thế giới và chúng ta nghĩ đến Do Thái giáo, Hồi Giáo, và biết bao Tôn Giáo hữu linh. Đặc tính riêng biệt của người Kitô hữu, chính là tin vào sự nhập thể của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô.
Sự tôn sùng Đức Maria, chỉ làm cho chúng ta nhớ lại điều đó.
|
Suy Niệm 3 Vũ Hồng
×
ĐỨC MARIA, MẸ THIÊN CHÚA
Vũ Hồng
Trong một lới giáo lý tại Porland, các em lứa tuổi 18-20, một câu hỏi được đặt ra: "Ðức Maria là Mẹ Thiên Chúa hay là Mẹ Ðức Giêsu?" 11/30 học sinh trả lời: "Ðức Maria là Mẹ Thiên Chúa." 2/30 trả lời: "Mẹ Ðức Giêsu..." Số còn lại, không có ý kiến. Còn bạn, có khi nào câu hỏi này chợt đến trong bạn không?
Biến cố lịch sử
Ðể thấy được sự xác tín và lòng sùng kính đích thực của toàn thể Hội Thánh đối với Ðức Maria, nhất là về tín điều về Ðức Maria Mẹ Thiên Chúa, chúng ta phải đi ngược lại dòng lịch sử.
Khoảng đầu thế kỷ thứ năm sau Chúa Giáng Sinh, Tổng Giám Mục thành Constantinôpôli, tên là Nestôriô, đã tự ý nêu lên một lạc thuyết. Ông tuyên bố rằng: "Chỉ nên gọi Ðức Maria là mẹ Ðức Giêsu." Bởi lẽ, theo ông, Ðức Maria chỉ sinh ra Ðức Giêsu, nên không gọi Ðức Maria là Mẹ Thiên Chúa được.
Nhận thấy lạc thuyết này quá sức nguy hiểm, và, Hội Thánh cũng thấy được rằng, qua Nestôriô, Satan muốn tách Ðức Giêsu Kitô ra khỏi Ngôi Lời nhập thể, đồng thời Satan muốn triệt tiêu lòng sùng kính Ðức Maria trong lòng các kẻ tin, nên công đồng Êphêsô được triệu tập vào năm 431 AD. Công đồng tuyên bố cất chức Tổng Giám Mục của Nestôriô, và truyền vạ tuyệt thông. Và toàn thể công đồng nhất trí công bố toàn thể Hội Thánh tuyên nhận Ðức Maria là Mẹ Thiên Chúa. (Theotokos).
Niềm vui lan tràn khắp Hội Thánh. Tại Êphêsô, ngay đêm đó, 22 tháng 6 năm 431, tất cả giáo dân trong thành phố và vùng phụ cận hân hoan tổ chức một cuộc rước vĩ đại để cám tạ ơn Thiên Chúa và chào mừng kết quả của Công Ðồng. Và cùng ngày hôm đó, Ðức Thánh Cha Celestinô (422-432) đã truyền đọc trong khắp Hội Thánh kinh: "Thánh Maria, Ðức Mẹ Chúa Trời..." sau kinh "Kính mừng Maria đầy ơn phúc..."
Nguồn Thánh Kinh
Hội Thánh đã tìm chân lý Ðức Maria Mẹ Thiên Chúa từ Lời Chúa trong Thánh Kinh. Hội Thánh biết được và xác tín vững chắc Ðức Maria Mẹ Thiên Chúa, căn cứ vào mặc khải của Chúa Thánh Thần qua miệng của bà Elizabeth. Tin Mừng theo thánh Luca viết:
"Trong những ngày ấy, trỗi dậy, Maria đon đả ra đi lên miền sơn cước, đến một thành xứ Yuđa; bà vào nhà Zacarya và chào Elizabeth. Nghe lời Maria chào thì hài nhi nhảy mừng trong dạ mẹ. Elizabeth được đầy Thánh Thần, thốt lên một tiếng kêu lớn và nói: "Trong nữ giới, có người là diễm phúc! Và đáng chúc tụng thay hoa quả lòng người! Và bởi đâu tôi được thế này là: Mẹ Chúa đến với tôi..." (Lc 1,39-43).
|
Suy Niệm 4 Đức cha Phaolô Bùi Văn Đọc
×
Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời Đức cha Phaolô Bùi Văn Đọc
Tên Maria của Đức Mẹ được thánh Bênađô giải thích là Ngôi sao biển: Như ngôi sao toả ra các tia sáng mà không bị lu mờ, Mẹ Maria là người Trinh Nữ sinh một hài nhi nam là Đức Giêsu, mà không thiệt hại gì về sự trinh khiết vẹn toàn.
Nơi Mẹ Maria cô đọng tất cả sự dịu dàng của phái nữ, tích tụ tất cả vẻ đẹp của vũ trụ. Mẹ Maria là hiện thân của sự Duyên Dáng: sự hoà hợp của những đường nét thanh tao, sự chiếu toả của ánh sáng đôi mắt, sự dịu dàng của nụ cười trên môi…
Thể xác Mẹ Maria xinh đẹp, nhưng tâm hồn của Mẹ còn đẹp gấp nhiều lần. Mẹ là tác phẩm đẹp nhất của Chúa Thánh Thần. Tâm hồn Mẹ trong trắng tinh tuyền, Mẹ hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa. Có thể ví tâm hồn Mẹ với cây đàn hoàn toàn rung theo bàn tay nghệ sĩ là Chúa Thánh Thần. Tâm hồn Mẹ như bài thánh ca tuyệt diệu làm cho Thiên Chúa thích thú và vui sướng. Mẹ là Đấng đầy Hồng Phúc, tràn trề Thiên Ân. Maria là Mẹ của Chúa Giêsu là Đấng Thiên Ân Nhập Thể.
Maria vừa là Mẹ, vừa là trinh nữ. Việc làm Mẹ của Maria có một bản chất đặc biệt: người con của Mẹ được thụ thai nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần, và Đấng Thánh sinh ra được gọi là Con Đấng Tối Cao. Một Vị Thiên Chúa Nhập Thể làm người nơi thân xác của một trinh nữ chỉ thực hiện được do công trình của Thiên Chúa, và đó là Việc Kỳ Diệu lớn nhất của Thiên Chúa cũng như Kỳ Công Phục Sinh Chúa Giêsu từ cõi chết.
Là thành viên của gia đình nhân loại, là người thiếu nữ xinh đẹp được sinh ra bởi hai ông bà Gioakim và Anna, Mẹ Maria cũng là thành viên của gia đình Thiên Chúa, vì Mẹ đã trở thành Mẹ Thiên Chúa trong thời gian và trong cõi vĩnh hằng. Sinh ra Chúa Giêsu, Mẹ Maria vĩnh viễn là Mẹ Chúa Giêsu; mà Chúa Giêsu là Thiên Chúa, nên Mẹ Maria vĩnh viễn là Mẹ Thiên Chúa.
Maria là Mẹ của Đấng Tạo Dựng trời đất, là Mẹ của Đấng Cứu Thế. Con trẻ mà Mẹ cưu mang, sinh hạ, cho bú, chăm sóc, Mẹ bồng bế cho mọi người chiêm ngưỡng, là Thiên Chúa làm người. Maria vừa có thể gọi hài nhi ấy “Con ơi!”, vừa thưa với ngài “Lạy Chúa!”.
Maria, Mẹ của Chúa Giêsu, cũng là Mẹ của tất cả chúng ta. Đức Giêsu là Đại biểu hoàn hảo và xứng đáng nhất của toàn thể nhân loại. Thâu hồi toàn thể nhân loại nơi bản thân mình, Đức Giêsu Kitô đã làm cho Mẹ Ngài trở nên Mẹ của tất cả mọi người. Vã lại, Đức Giêsu, trên cây thập tự đã trối Mẹ Maria lại cho thánh Gioan, và qua Gioan, cho tất cả Hội Thánh, cho tất cả nhân loại chúng ta. Nhân loại là một gia đình gồm những người con được tiền định làm con cái của Thiên Chúa, và con cái của Mẹ Maria.
Ước gì tên Maria mãi mãi ở trên môi miệng chúng ta và đừng bao giờ rời bỏ trái tim chúng ta. Mẹ yêu ta, ta yêu Mẹ, chúng ta yêu thương nhau vì là con cùng một Mẹ. Ta hãy xin Mẹ cầu thay nguyện giúp cho ta, nhưng cũng đừng quên noi gương của Mẹ. Bước theo Mẹ, ta không bao giờ lạc lối; cầu nguyện với Mẹ, ta không thất vọng bao giờ; tham khảo ý kiến của Mẹ, ta sẽ không sai lầm. Mẹ nâng đỡ, ta không dễ dàng sa ngã; Mẹ chở che, ta không phải sợ gì; Mẹ đưa dẫn, ta không còn mệt mõi; Mẹ nhậm lời, chắc ta sẽ thành công.
|
Suy Niệm 5 Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
×
Lễ Mẹ Thiên Chúa
Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
Năm 431 trên các đường phố tại thành Ê-phê-xô, buổi tối 11 tháng 10 sau khi Công đồng bế mạc, giáo hữu đã đốt đuốc rực trời, cung nghinh ảnh Đức Trinh Nữ Ma-ri-a và cất tiếng tung hô Mẹ với tước hiệu Mẹ Thiên Chúa. Thời ấy có một số người không muốn nhìn nhận Chúa Giê-su là Thiên Chúa. Đó chính là điều Công đồng đã thảo luận và các nghị phụ đã đồng thanh định tín rằng nơi Chúa Giê-su bản tính nhân loại và bản tính Thiên Chúa kết hiệp với nhau trong một ngôi vị là Ngôi Hai Thiên Chúa. Chúa Giê-su thực sự là người và cũng thực sự là Thiên Chúa. Do đó, Đức Mẹ không chỉ là mẹ của một hài nhi, nhưng cũng là mẹ của Thiên Chúa nữa. Tuy nhiên, đoạn cuối của bài Tin Mừng hôm nay lại cho ta cơ hội để suy niệm về thiên chức làm Mẹ Thiên Chúa của Đức Mẹ. Thánh sử Lu-ca đã tế nhị ám chỉ thiên chức ấy của Đức Mẹ khi ngài kể lại biến cố Chúa Giê-su chịu phép cắt bì. Ngài viết: “Khi Hài Nhi được đủ tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ cắt bì, người ta đặt tên cho Hài Nhi là Giê-su; đó là tên mà sứ thần đã đặt, trước khi Hài Nhi thành thai trong lòng mẹ”. Tên của Hài Nhi nói lên sứ mệnh của Người, nhưng cũng nói lên chức phận của Đấng đã cưu mang và nuôi dưỡng Người.
a) “GIÊ-SU, đó là tên mà sứ thần đã đặt, trước khi Hài Nhi thành thai trong lòng mẹ”
Mỗi dự án của ta thường mang một cái tên, thí dụ chương trình Xoá đói giảm nghèo, Khuyến học dành cho các em học sinh Dân tộc, Chén cơm cho người già neo đơn... Các chính phủ lại càng nhiều dự án hơn nữa, nhưng thường thì cái tên thật kêu mà kết quả chẳng là gì cả! Thiên Chúa cũng có một kế hoạch duy nhất và kế hoạch này mang cái tên thật ngắn gọn: GIÊ-SU. Giê-su nghĩa là “Thiên Chúa là sự cứu độ”, hoặc “Thiên Chúa cứu độ”. Các ngôn sứ trong Cựu Ước đã nói về kế hoạch này, nhất là ngôn sứ I-sai-a. Nhưng họ chỉ biết diễn tả một viễn tượng gồm những gì Thiên Chúa sẽ thực hiện cho nhân loại, chứ không thể đặt cho kế hoạch đó một cái tên đầy đủ ý nghĩa.
Khi truyền tin, sứ thần Gáp-ri-en đã chuyển lại cho Đức Mẹ sứ điệp của Thiên Chúa về kế hoạch ấy. “Này đây, bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là GIÊ-SU”. Rồi sứ thần giải thích ý nghĩa của tên ấy: “Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng Vua Đa-vít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận”. Đó là kế hoạch của Thiên Chúa để cứu độ một nhân loại đã bị hư mất do tội lỗi. Thiên Chúa muốn tạo dựng một nhân loại mới, một triều đại mới và vĩnh cửu. Nhưng Thiên Chúa sẽ thực hiện kế hoạch ấy trong chính lịch sử của nhân loại, cho nên Người đã chọn một không gian và thời gian là Do-thái, và nhất là Người đã chọn một “nhà tạm” bằng xương bằng thịt, một “lâu đài Đa-vít” sống động là Mẹ Ma-ri-a, để bắt đầu thực hiện việc cứu độ toàn diện con người, từ khi thành thai trong lòng mẹ cho tới giây phút cuối cùng cuộc đời trần gian. Nếu con người nguyên tổ đã đánh mất đi toàn diện con người mình, từ thể xác cho đến linh hồn, thì giờ đây qua kế hoạch GIÊ-SU, Thiên Chúa sẽ tái tạo con người theo mẫu mực của Ngôi Lời nhập thể.
Ta không thể tưởng tượng nổi kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Chính Người đã tiền định kế hoạch cứu độ và đích thân thực hiện kế hoạch ấy bằng cách đến với con người. Người có thể đến theo cách của thần thánh, như Người đã đến với dân Do-thái tại Xi-nai trong sấm chớp vang rền và vô cùng sợ hãi. Nhưng Người chọn cách đến thầm lặng và khiêm tốn trong lòng của một trinh nữ, lệ thuộc vào điều kiện vật lý để lớn lên. Sự phát triển toàn diện và viên mãn con người của Chúa Giê-su từ lúc thành thai trong lòng Đức Mẹ cho đến khi phó thác linh hồn trong tay Chúa Cha là tiến trình gương mẫu cho mọi người. Tuy nhiên, một trong những diệu kỳ của kế hoạch cứu độ là Thiên Chúa đã chọn cho mình một bà mẹ trần gian để làm gương mẫu cho mọi người. Một ngày kia, Thiên Chúa làm người đứng trước đám đông dân chúng và nghe họ khen ngợi Mẹ Người, Người đã hãnh diện và tế nhị nói về Mẹ Người: “Đúng hơn phải nói rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11:28). Đức Mẹ là Đấng có phúc không những vì Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, nhưng còn vì Mẹ là gương mẫu cho những ai biết lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa.
b) “Bà Ma-ri-a thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng”
Để bổ túc cho lời đám đông ca ngợi Đức Mẹ, Chúa Giê-su đã gọi Mẹ Người là “kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa”. Trong suốt sứ vụ rao giảng Tin Mừng, Chúa Giê-su luôn lập đi lập lại câu nói “ai nghe và tuân giữ lời Thầy, người ấy mới đích thực là môn đệ Người và mới được vào Nước Trời”. Chắc chắn nói những lời ấy, Chúa Giê-su muốn ám chỉ về Mẹ Người như một gương mẫu lắng nghe và thi hành lời Chúa. Từ sau khi được sứ thần truyền tin và cả trước đó nữa, Mẹ hằng chiêm niệm chân lý và vẻ diệu kỳ trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Do đó, lúc sứ thần trình bày kế hoạch ấy, Mẹ đã sẵn sàng chấp nhận và thi hành ý Chúa. Hơn ai hết, Mẹ đã là môn đệ toàn hảo của Chúa rồi và được Người chọn làm Mẹ Người.
Ghi nhớ và chiêm ngưỡng ân sủng của Thiên Chúa ban cho Người và cho toàn thể nhân loại, Đức Mẹ không “suy đi nghĩ lại” một cách thụ động hay tính toán, nhưng là để biết quảng đại hơn. Càng nhận ra mức độ bao la của tình yêu Thiên Chúa, Đức Mẹ càng muốn đáp trả một cách quảng đại hơn. Não trạng của người đời là vênh vang khi mình có chức phận. Còn Đức Mẹ thì ngược lại, Mẹ không tự mãn với vai trò làm Mẹ Thiên Chúa, nhưng Mẹ càng nhận rõ hơn tình thương Chúa dành cho “phận nữ tỳ hèn mọn”, để rồi từng giây từng phút trong cuộc đời, Mẹ chỉ hết lòng “ngợi khen Đức Chúa” và “thần trí hớn hở vui mừng” khi thấy kế hoạch cứu độ của Đức Chúa đang được thực hiện.
Gương mẫu này bắt ta phải xét lại lối sống của ta. Thử hỏi có gì tốt trong đời ta lại không phải là ân sủng Chúa ban? Vậy mà ta dễ dàng quên đi nguồn gốc của ân sủng. Nhiều khi ta còn cho đó là tự tay ta tạo nên, thay vì nhận biết chúng đến từ Thiên Chúa. Ta không muốn làm “phận nữ tỳ hèn mọn”, nhưng muốn loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống. Thay vì suy đi nghĩ lại những ân sủng để nhận biết quyền năng và tình thương của Chúa, ta lại tính toán chuyện leo cao hơn nữa trên đường danh vọng và không muốn ai hơn mình. Mẹ Ma-ri-a chiêm niệm sự khiêm nhượng của “Đấng vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nên đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Pl 2:6), để Mẹ càng sống khiêm nhượng và sẵn sàng chấp nhận mọi hy sinh, dù phải dâng hiến chính Con của Mẹ cho Thiên Chúa và nhân loại.
c) Suy nghĩ và cầu nguyện
Đức Mẹ cưu mang Thiên Chúa trong lòng và cống hiến Thiên Chúa cho nhân loại, đó là một ý nghĩa của tước hiệu Mẹ Thiên Chúa. Vậy tôi có chia sẻ sứ mệnh ấy của Đức Mẹ không? Tôi có Chúa trong tôi như thế nào và tôi đem Chúa đến cho anh chị em như thế nào?
Tôi có noi gương Đức Mẹ, lắng nghe và tuân giữ lời Chúa không? Lắng nghe thế nào và tuân giữ ra sao? Đức Mẹ dạy tôi những bài học nào để lắng nghe và tuân giữ lời Chúa?
Tôi có chiêm ngưỡng tình yêu của Thiên Chúa dành cho tôi và sống đáp trả tình yêu ấy theo gương Đức Mẹ không? Tình yêu Thiên Chúa dành cho tôi được thể hiện trong những điều gì? Tôi đáp lại cách cụ thể như thế nào?
Cầu nguyện
“Lạy Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, Mẹ Thiên Chúa,
xin gìn giữ nơi con quả tim của trẻ thơ
tinh tuyền và trong ngần như dòng suối.
Xin ban cho con quả tim đơn sơ,
mau quên những nỗi buồn phiền.
Một quả tim hào hiệp dám hiến thân,
dịu dàng để cảm thông.
Một quả tim trung thành và quảng đại,
không quên ơn, không báo oán.
Xin tạo cho con quả tim hiền từ và khiêm tốn,
yêu mà không mong được yêu lại,
hân hoan xoá mình đi
để Con của Mẹ có chỗ trong lòng người khác.
Một quả tim vĩ đại và bất khuất,
không khép lại trước những kẻ vô ơn,
không chán nản trước người lạnh nhạt.
Một quả tim khắc khoải
lo tìm vinh danh Chúa Giê-su Ki-tô,
quả tim mang vết thương vì yêu Ngài,
vết thương chỉ lành
khi được sống với Ngài trên trời. A-men.”
(Trích RABBOUNI, lời nguyện 50)
|
Suy Niệm 6 Lm Phêrô Trần Đình, Đalạt
×
Lễ Mẹ Thiên Chúa Lm Phêrô Trần Đình, Đalạt
Phụng vụ khởi đầu năm mới dương lịch bằng cách tôn vinh một con người dưới tước hiệu “Mẹ Thiên Chúa”. Đó là Đức Maria.
Một mầu nhiệm khó hiểu
Mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể đã khó hiểu đối với lý trí con người, việc Đức Maria được gọi là Mẹ Thiên Chúa lại càng khó hiểu hơn. Là bởi vì con người sao lại có thể sinh ra Chúa ?. Chính vì vậy, trong quá khứ đã có không ít người phủ nhận tước hiệu này (Nestôriô, thế kỷ 5).
Tiên tri Ysaia đã ví “xác phàm như cỏ rả” khi so với Thiên Chúa là Đấng ngàn năm bền vững, vạn đại trường tồn. Xét về phương diện con người, Đức Maria thật ra cũng chỉ là “cỏ rả”, làm sao sinh ra Thiên Chúa được ?.
Một đường lối ngược đời
Mà thật ra, ngẫm cho kỹ, hành động của Thiên Chúa xem ra bao giờ cũng ngược đời : “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi và đường lối của Ta cũng không phải là đường lối của các ngươi” (Ys 55, 8).
Để yêu thương, Thiên Chúa không thích biểu dương chính mình bằng một cách thế oai phong lẫm liệt, nhưng luôn tự xoá nhoà chính bản thân mình. Người đã “không giằng cho được địa vị ngang hàng cùng Thiên Chúa” thì Người còn muốn đề cao mình làm gì ?.
Trong thơ gởi tín hữu Galata, bài đọc 2, Thánh Phaolô đã viết một câu thật đáng sợ : “Khi tới hồi viên mãn, Thiên Chúa sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà và sống dưới lề luật, để chuộc những ai sống dưới lề luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử” (4, 4-5).
Suy cho cùng, Thiên Chúa đã hành động bằng cách đi ngược lại với con đường của Ađam ngày xưa. Chính vì kiêu ngạo và bất tuân mà tội đã nhập vào thế gian này và bởi đó có sự chết. Con đường Chúa muốn đi và muốn dạy kẻ khác cùng đi nếu muốn được sự sống đời đời chính là con đường nhỏ bé khiêm cung, con đường “tự huỷ”.
Rồi đây, cả cuộc đời dương thế, Chúa chỉ đi theo con đường này mà thôi. Ma quỉ có cám dỗ Chúa thì cũng chỉ vì muốn Người ra khỏi con đường này mà thôi. Nội dung của những chước cám dỗ là bày ra một con đường đầy hương hoa cỏ la, điều mà thế gian yêu chuộng.
Vì vậy, lễ Đức Maria, “Mẹ Thiên Chúa” trước hết muốn nói về Chúa Giêsu. Mầu nhiệm nhập thể của Người vẫn còn tiếp tục được trình bày dưới một hình thức kín đáo.
Đức Maria, “Mẹ Thiên Chúa”
Xét trên lý luận, con người không thể nào sinh ra Chúa được. Đức Maria quả thật đã không sinh ra Thiên Chúa.
Tuy nhiên, Đức Giêsu Kitô là một chủ vị duy nhất, và vì Đức Maria đã sinh ra một vị “Thiên-Chúa-làm-người”, nên hoàn toàn hữu lý khi gọi ngài là Mẹ Thiên Chúa. Mà không phải hôm nay Giáo Hội mới tự đặt ra, chính bà Elisabet đã gọi Mẹ bằng tước hiệu đó : “Bởi đâu tôi được phúc này là Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi như vậy” (Lc 1, 43).
Xem ra, cả Đức Maria cũng sững sờ trước hồng ân cao cả này.Trong khi các mục đồng “hối hả” đi đến Bêlem, rồi sau đó “kể lại điều họ đã được nghe nói về Hài Nhi” thì thái độ trước sau của Đức Maria chỉ là “ghi nhớ và suy nghĩ trong lòng” đi đôi với sự cung kính thờ lạy Đấng sinh ra bởi lòng mình.
Tôn vinh con người
Có những luồng tư tưởng triết học hiện sinh muốn hạ bệ Thiên Chúa để tôn vinh con người (như Nietszche : “Hoàng hôn của những thần tượng”).
Thật ra, qua Đức Maria, Thiên Chúa muốn tôn vinh con người, cho dầu chẳng phải ai cũng được diễm phúc cưu mang và sinh hạ Chúa như Đức Maria. Chúa muốn dùng con người như những khí cụ hữu hiệu để Chúa luôn được sinh ra nơi lòng dạ con người mọi thời.
Lễ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa, như vậy, đã cùng một lúc tôn vinh đường lối nhiệm lạ của Thiên Chúa, tôn vinh Đức Maria và đồng thời tôn vinh con người.
|
Suy Niệm 7 Lm Giuse Trương Đình Hiền
×
Lễ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa Lm Giuse Trương Đình Hiền
1. Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa : Tước hiệu nầy có to tát quá không ?
Khi xuống thế làm người, Ngôi Hai Thiên Chúa đã chấp nhận mang lấy bản tính của nhân loại. Nếu Ngài đã không từ chối sinh ra trong lòng một dân tộc cứng đầu và phản loạn, đã không chọn cho mình một gia đình quí tộc đế vương, nhưng lại chấp nhận thuộc dòng con cháu Áp-ra-ham mà trong thứ tự gia phả (Mt 1,1-16) đã có ít nhất 4 người phụ nữ không ra gì : Ta-Ma loạn luân (St 38, 1-30), Ra-kháp mãi dâm (Gs 2, 1-21), Rút ngoại đạo (R 3-4), Bát-sê-ba ngoại tình (2 Sm 11,12), thì việc Ngài làm con Đức Maria, một Trinh nữ thánh thiện, không nhiễm tội truyền, có gì là không chấp nhận được ! Cũng thế, nếu Đấng Kitô của Thiên Chúa lại chấp nhận chen lẫn với đoàn người tội lỗi lội xuống dòng sông Gio-đan để Gioan Tẩy Giả thanh tẩy, nếu “Đấng Thánh của Thiên Chúa” sẵn sàng đàn đúm với bọn người thu thuế tội lỗi như Matthêo, như Maria Mađalêna…, nếu “Con Chiên vẹn tuyền của Thiên Chúa”, lại chấp nhận bị kết án, bị lột trần, bị đánh tan nát và bị đóng đinh chết giữa hai tên trộm cướp…, thì việc Ngài chấp nhận làm Con của một người Trinh Nữ thánh thiện có gì là bất hợp lý đâu !
Chẳng những đã không bất hợp lý mà lại rất cần thiết ; vì Đức Trinh Nữ Maria đã được Thiên Chúa tuyển chọn để cộng tác với Ngài trong công cuộc thực hiện chương trình cứu rỗi mà thư thánh Phaolô gởi giáo đoàn Galát vừa khẳng định trong Bài đọc 2 : “khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới lề luật, để chuộc những ai sống dưới lề luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử”
2. Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa để chúng ta được làm con
Trước lời đề nghị của thiên sứ Gáp-ri-en “Bà sẽ sinh hạ một con trai…”, nếu Đức Maria cực lực chối từ, thì không biết tương lai nhân loại hôm nay đi về đâu. Thật là may mắn, lời “Xin Vâng” đã được vang lên, và thế là tất cả nhân loại đã được lôi kéo đi vào quỹ đạo của ơn cứu độ. Nói cách khác, Đức Maria chấp nhận làm Mẹ Thiên Chúa để tất cả chúng ta được diễm phúc làm con Thiên Chúa. Thánh Bênađô đã diễn tả giây phút huyền nhiệm buổi truyền tin bằng một bài giảng thâm thúy với tựa đề “cả thế giới chờ đợi câu trả lời của Đức Maria” :
” Lạy Đức Trinh nữ xin mau trả lời…Mẹ lưỡng lự làm chi, run sợ làm gì ?...Lúc nầy đơn sơ trong trắng mà quên lãng khôn ngoan thì chẳng xứng hợp chút nào. Lạy Đức Trinh nữ khôn ngoan, trong sự việc có một không hai, xin Mẹ đừng sợ phải liều. Mẹ làm thinh vì e ngại, đó là điều đẹp lòng Chúa, nhưng bây giờ Mẹ nói ra vì hiếu thảo thì lại là điều cần thiết hơn. Lạy Đức Trinh Nữ diễm phúc, xin Mẹ mở tâm hồn để tin, mở miệng nói lên lời ưng thuận và mở lòng để đón Đấng Tạo Thành ra Mẹ. Nầy Đấng mọi dân tộc khao khát đang đứng bên ngoài và gõ cửa. Ôi, nếu như Mẹ chần chừ mà Người đi qua mất, thì Mẹ lại phải khổ công tìm kiếm Đấng lòng Mẹ mến yêu ! Xin Mẹ trỗi dậy, chạy ra, mở cửa. Xin Mẹ trỗi dậy với lòng tin, chạy ra với lòng mến và mở cửa bằng sự ưng thuận. Đây Mẹ đã nói : Vâng, nầy tôi là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa làm cho tôi như lời thần sứ phán”.
3. Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa để Hội Thánh lớn lên và không ngừng tươi trẻ
Nếu trong thời chiến tranh Việt nam 30 về năm trước, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã khắc họa hình ảnh của “Người Mẹ Việt Nam” chắt chiu chăm sóc đàn con bằng những lời ca thật đẹp trong ca khúc “Huyền thoại Mẹ” : “Mẹ về đứng dưới mưa che đàn con nằm ngủ canh từng bước chân thù, mẹ ngồi dưới cơn mưa. Mẹ lội qua con suối, dưới mưa bom không ngại, mẹ nhẹ nhàng đưa lối, tiễn con qua núi đồi…Mẹ là nước chứa chan, trôi giùm con phiền muộn, cho đời mãi trong lành, mẹ chìm dưới gian nan…” ; thì ở giữa lòng Hội Thánh Công Giáo hôm nay, không chỉ là một ảnh hình khắc họa của thi ca, của âm nhạc, Mẹ Maria đã đang và mãi mãi đồng hành với Hiền Thê của Con Mẹ, để làm cho Hội thánh lớn lên và không ngừng tươi trẻ. Từ Lộ Đức tới La Vang, từ Trà Kiệu tới Fatima…Mẹ luôn dõi theo từng bước chân của Hội Thánh để chăm sóc giữ gìn, để động viên an ủi, để dạy bảo răn đe. Nói cách khác, Mẹ không ngừng đem cho Giáo Hội những làn gió mát của Thánh Thần để chiếc sáo Giáo Hội rung lên những giai điệu tuyệt vời hầu chuyển tải sứ điệp Tin Mừng cho muôn dân tộc, như cách diễn tả của thi sĩ Xuân Diệu, một người ngoại giáo, đã cảm nhận sâu sắc về Mẹ Trà Kiệu qua mấy vầng thơ mượt mà thanh thoát :
Nên hôm nay con ngồi như trẻ nhỏ,
Giữa đáy trưa trong lòng Mẹ vô cùng.
Con là sáo mẹ là ngàn vạn gió,
Mẹ là trời con là hạt sương rung.
4. Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, Nữ vương của hòa bình
Thế giới hôm nay đúng là đang quay quắt trong một “buổi trưa hè nóng nực” với cái không khí của bạo lực tràn lan, khủng bố, chiến tranh, chết chóc, tội ác lan tràn. Thật đúng lúc và thích hợp khi Đức Maria Mẹ Thiên Chúa được chọn như “Người Mẹ của Hòa Bình” để ngày hôm nay, đầu năm Dương Lịch, cả Hội Thánh dâng lời cầu nguyện cho hòa bình thế giới. Trong những ngày Giáng Sinh vừa qua, hình ảnh Mẹ Maria bên cạnh hài nhi Giêsu, Hoàng tử Hòa Bình và thánh cả Giuse, người thợ mộc im lặng của làng Na-da-rét đã cho chúng ta cảm nhận được ý nghĩa đích thực của bốn chữ “bình an dưới thế”. Đó là sự bình an của máng cỏ khó nghèo. Đó là sự bình an của những tâm hồn mục đồng đơn sơ chất phác. Đó là sự bình an của những đạo sĩ phương đông khao khát kiếm tìm chân lý. Đó là sự bình an của những tâm hồn khiêm hạ tuân phục thánh ý Thiên Chúa như Maria, như Giuse. Đó là sự bình an được gặp gỡ Thiên Chúa, bồng ẵm Chúa trên đôi tay già nua cằn cỗi của mình như cụ già Simêon. Sở dĩ thế giới hôm nay đang chìm ngập trong chiến tranh máu lửa bới vì thế giới đang thiếu những không gian như máng cỏ Bê Lem, những tâm hồn khiêm hạ khó nghèo và thánh thiện như Hài Nhi Giêsu, như Mẹ Maria, thánh Giuse, cụ già Simêon…Đã đế lúc, không chỉ cầu nguyện cho hòa bình mà mỗi người chúng ta phải là những tác nhân đi xây dựng hòa bình, phải là những tông đồ mang “Hoàng Tử Bình An” đến cho nhân loại.
Bài học sâu xa nhất, cụ thể nhất mà chúng ta có thể học được nơi Đức Mẹ để trở nên tác nhân của hòa bình đó chính là biết “Xin vâng”, như lời kinh cầu nguyện cùng Mẹ Maria trong dịp Mừng Năm Thánh 2000 của Đức Cố Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II :
Xin Mẹ hãy dạy chúng con một điều duy nhất nầy mà thôi, là biết thưa “XIN VÂNG” với thánh ý của Thiên Chúa Cha, biết thưa “XIN VÂNG” với Tin Mừng của Chúa Con, và thưa “XIN VÂNG” với tác động của Chúa Thánh Thần.
Cùng với Mẹ,
Chúng con bước đi trên con đường thời gian,
Để đến với anh chị em,
Và sống hiệp thông hoàn toàn với Thiên Chúa,
Nơi Mẹ đã đi trước nêu gương cho chúng con.
Lạy Đức Nữ Đồng trinh,
Xin Mẹ hãy hướng dẫn chúng con tiến đến ngàn năm mới,
Và xin giúp chúng con bước theo Mẹ,
Trong sứ mạng Mẹ đã lãnh nhận.
Như Mẹ đã đưa Chúa Kitô
Vào trong nền văn hóa Do Thái,
Thì chúng con cũng phải đưa Chúa Giêsu
Vào trong các nền văn hóa của các dân tộc.
Chúng con sẽ thuộc về dòng tộc của Mẹ,
Ngõ hầu Chúa Kitô,
Qua chúng con mà được sinh ra trong thế giới. AMEN.
|
Suy Niệm 8 Sưu Tầm
×
Lễ Mẹ Thiên Chúa Sưu Tầm
Đầu Năm Dương Lịch, Giáo Hội Công Giáo cử hành Lễ Trọng Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa. Hôm nay cũng là ngày Bát Nhật sau Lễ Chúa Giáng Sinh. Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu, Người vừa là Chúa và là người. Là Mẹ Thiên Chúa, Đức Maria được Thiên Chúa phú ban cho những đặc ân: Mẹ trong sạch vô nhiễm tội và được thăng thiêng cả hồn lẫn xác.
Ơn cứu chuộc được bắt đầu bằng hai tiếng «xin vâng» của Đức Mẹ. Do vậy, Đức Mẹ đã chấp nhận một vai trò, một sứ mệnh mới làm Mẹ Con Thiên Chúa. Chúa Giêsu đến với Đức Mẹ do lòng tin của Mẹ, và Mẹ đã nhận lãnh và cộng tác vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa bằng cách trở nên «nữ tỳ của Thiên Chúa». Mẹ cũng đã nhiệt tâm chu toàn thánh ý của Thiên Chúa.
«Nhưng khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con Người tới, sinh bởi người nữ, và sống dưới lề luật» (Galát 4:4). Thật vậy, Thiên Chúa đã chọn Đức Trinh Nữ Maria làm mẹ cho Ngôi Hai Con Thiên Chúa. Khi nói lên hai tiếng xin vâng, Đức Mẹ đã biết lắng nghe bằng đức tin, đặt hết niềm tin tưởng nơi Thiên Chúa.
Đức Mẹ là người sống trong cầu nguyện. Khi được truyền tin chịu thai Ngôi Hai nhập thể bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Mẹ Maria đã cầu nguyện để cộng tác vào công trình cứu chuộc của Thiên Chúa. Bằng đức tin, Mẹ Maria là nữ tỳ khiêm nhường được ‘tràn đầy ơn phúc’ và đã vâng như lời thánh thiên thần truyền.
Đức Mẹ Maria thật sự là «Mẹ Thiên Chúa» vì Đức Mẹ là Mẹ Ngôi Hai Con Thiên Chúa, Đấng sinh hạ làm người và Ngài cũng là Thiên Chúa.
Suy Niệm:
«Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy,
và suy đi nghĩ lại trong lòng»
(Lc 2:19)
Sau khi được các thiên thần báo tin vui, các mục đồng đã hối hả tìm đến viếng thăm Chúa Hài Nhi Giáng Sinh nơi hang đá Bêlem. Nơi hang đá các mục đồng đã thấy Mẹ Maria, Thánh Cả Giuse, và Hài Nhi được đặt trong máng cỏ, đúng như lời các thiên sứ đã loan báo. Khi nghe các mục đồng thuật lại chuyện Chúa Giêsu hạ thế, ai cũng ngạc nhiên. Còn Mẹ Maria, thì hằng suy gẫm mọi điều ấy trong lòng.
Các mục đồng là những người có đức tin. Các mục đồng là những người đơn sơ chất phác, ít học, chỉ lo việc đồng áng. Khi được các thiên sứ báo cho biết sự việc đã xảy ra, các mục đồng đã đích thân đến bái viếng con trẻ được sinh hạ cho thế gian. Cũng vì đức tin, các mục đồng đã không ngần ngại thuật lại những gì mình đã chứng kiến.
Riêng đối với Đức Mẹ Maria thì lại đem những điều ấy và giữ lại trong lòng. Mẹ Maria giữ những sự ấy làm của riêng trong lòng để suy ngẫm. Mẹ Maria đã không nói nhiều, những đã suy đi nghĩ lại trong lòng mầu nhiệm cứu chuộc của Ngôi Hai Con Thiên Chúa.
Hơn ai, chính Đức Mẹ đã chứng thực tất cả những sự đã xảy ra. Mẹ đã có công giúp vào công trình cứu độ của Thiên Chúa bằng cách sinh hạ Ngôi Hai cho thế gian. Tuy có công trạng, nhưng Đức Mẹ đã không cao rao nói cho mọi người biết. Ngược lại, Đức Mẹ nhường lại cho Thiên Chúa định đoạt công trạng của Mẹ sau này. Vì vậy Đức Mẹ đã giữ thinh lặng, suy đi nghĩ lại những điều đã xảy ra.
Điểm mấu chốt nơi Đức Mẹ trong bối cảnh Chúa Giáng Sinh là sự suy ngẫm trong lòng. Hồng ân Thiên Chúa ban cho Mẹ thật là cả thể. Vốn là người phàm, nhưng Đức Mẹ được chọn để sinh ra Đấng Cứu Tinh nhân loại. Tất cả những điều này, Đức Mẹ muốn giữ lại trong lòng như những kỷ niệm thật đẹp về mầu nhiệm Nhập Thể.
Đức Mẹ ca tụng tán dương Thiên Chúa một cách khác với các mục đồng. Đức Mẹ thấy, cảm phục, và ngợi khen Thiên Chúa về sự khôn ngoan và quyền lực của Ngài trong công trình cứu chuộc loài người.
Việc Đức Mẹ suy đi nghĩ lại những sự việc xảy ta trong lòng như vậy, sẽ đọng lại trong ký ức của Đức Mẹ rất lâu. Đức Mẹ vốn biết giữ thinh lặng, nên sẽ càng giúp Mẹ suy ngẫm và hiểu các mầu nhiệm của Thiên Chúa.
Áp dụng vào đời sống thiêng liêng, sự suy ngẫm trong lòng cũng là một hình thức cầu nguyện. Con người cầu nguyện cùng Thiên Chúa không chỉ bằng miệng lưỡi, nhưng bằng những sự suy niệm trong lòng. Đây được coi là cầu nguyện bằng tâm hồn, bằng quả tim. Qua cách lắng đọng tâm hồn lại, xua đuổi những sự ồn ào náo nhiệt, con người sẽ dễ thầm thì cùng Thiên Chúa hơn. Thánh Teresa Avila có dạy rằng, cầu nguyện trầm lặng là rút vào cô tịch một mình với Thiên Chúa, Đấng yêu thương và hiểu biết con người.
Lời Nguyện:
Lạy Thiên Chúa là Cha nhân lành, Chúa đã chọn Đức Trinh Nữ Maria làm Mẹ của Ngôi Lời Nhập Thể, Đấng làm người ở giữa chúng con. Xin ban cho chúng con Chúa Thánh Thần ngõ hầu đời sống chúng con được chúc phúc và biết đón nhận những ơn Chúa ban cho phần rỗi linh hồn. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô Con Chúa, là Thiên Chúa, Đấng hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.
|
Suy Niệm 9 Chuyển ngữ: Nguyễn Việt Hữu
×
Lễ Mẹ Thiên Chúa Chuyển ngữ: Nguyễn Việt Hữu
Vào năm 429 sau công nguyên, tại thành phố Constantinople, dân chúng được nghe một bài giảng. Vị giảng thuyết đã nói: “Đừng ai gọi Ma-ri-a là mẹ Thiên Chúa. Ma-ri-a chỉ là một phụ nữ, và đã là một phụ nữ thì không thể sinh ra Thiên Chúa.” Những lời kỳ quặc này đã tạo chấn động lớn nơi tín hữu Constantinople, nhất là khi đạo lý đó lại được chủ trương do một người tên là Nestorius – vị giám mục của họ. Ông từ chối gọi Đức Ma-ri-a là mẹ Thiên Chúa vì ông không tin rằng Thiên Chúa và Đức Giê-su Ki-tô là một và cũng là cùng một ngôi vị. Ông chủ trương Thiên Chúa và Đức Ki-tô là hai ngôi vị riêng biệt, được kết hợp với nhau một cách lạ lùng, nhưng tách biệt nhau, do đó Đức Ki-tô con người chỉ bắt đầu hiện hữu khi được sinh ra do Đức Maria, trong khi Đức Ki-tô Thiên Chúa thì đã có từ trước muôn đời. Cho dù Nestorius có đề cao sự kết hợp mật thiết giữa Đức Kitô con người và Đức Ki-tô Thiên Chúa đến thế nào đi nữa, thì đối với ông, Đức Kitô và Thiên Chúa vẫn là hai ngôi vị khác nhau. Do đó Ma-ri-a chỉ là mẹ của một con người – hoàn toàn một con người !
Tất cả điều này nghe thật chói tai đối với người Công Giáo thời ấy cũng như với chúng ta ngày nay. Nó đã gây nên rối loạn cho đức tin Kitô giáo nơi dân chúng. Bởi đó, để đối phó kịp thời, hai năm sau, các giám mục trong Hội Thánh Công Giáo nhóm họp công đồng tại Ê-phê-xô, đã làm sáng tỏ tất cả những gì thuộc đức tin Ki-tô giáo trước đó, và những gì thuộc đức tin Kitô giáo từ đó trở đi. Các ngài đã khẳng định: “Đức Kitô là Thiên Chúa thật và do đó, Thánh Nữ Đồng Trinh cũng là Mẹ Thiên Chúa – bởi vì Mẹ đã sinh ra thân xác của Ngôi Lời làm người, như Kinh Thánh đã viết rằng: ‘Ngôi Lời đã trở nên người phàm’.” Kitô hữu không còn phải bận tâm, vì không còn gì để nghi ngờ nữa.
Thời đó cũng như ngày nay, hiển nhiên cái lý do cạm bẫy để những ai từ chối không gọi Đức Ma-ri-a là mẹ Thiên Chúa chính là sự tách biệt Đức Ki-tô ra – tách biệt Đức Kitô thành “Đức Giê-su con người” và “Đức Giê-su Thiên Chúa – “Đức Gie-âsu trên trời” và “Đức Giê-su dưới thế”. Nhưng theo thánh Gioan Tông đồ: “Thần khí nào không tuyên xưng Đức Giê-su, thì không bởi Thiên Chúa” (1 Ga 4:3). Cho nên hữu ý hay vô tình, họ đã biến Đức Ki-tô thành một con người hoàn toàn phàm tục nếu họ cho rằng Maria chỉ là mẹ của một con người mà thôi.
Trả lời cho câu hỏi: “Có phải Đức Ma-ri-a là mẹ Thiên Chúa không?” cũng chính là trả lời cho câu hỏi: “Đức Giê-su là ai và làm gì?” Hai câu hỏi không thể tách biệt, cũng như Đức Ma-ri-a và Con của ngài không thể tách biệt. Câu trả lời của Công Giáo luôn luôn rõ rệt và nhất quán – nhất quán theo những đòi hỏi của lẽ phải và theo những dữ kiện gặp thấy trong Tân Ước.
ĐỨC KITÔ LÀ THIÊN CHÚA
Những dữ kiện này là gì? Chúng ta có thể trình bày những dữ kiện ấy cách ngắn gọn như sau: trong Tân Ước, Đức Giê-su Ki-tô được nói đến như là Thiên Chúa và Ngài rõ ràng được gọi là Thiên Chúa. Ngài được mô tả như một con người đích thực cũng như Ngài được gọi là một người đàn ông. Điều ấy rõ ràng có nghĩa Ngài là một ngôi vị Thiên Chúa nhưng lại có bản tính Thiên Chúa và bản tính loài người. Không phải bản tính Thiên Chúa trở thành loài người hoặc bản tính loài người trở thành Thiên Chúa. Hai bản tính vẫn riêng biệt, nhưng kết hợp lại nơi Ngài vì chúng thuộc về cùng một ngôi vị là Đức Giê-su Ki-tô.
Xác nhận những dữ kiện này trong Kinh Thánh không có gì là khó hoặc không thích đáng. Đức Giê-su Ki-tô rõ ràng được gọi là “Thiên Chúa” trong một số đoạn Kinh Thánh. Sau khi sống lại, lúc Ngài hiện ra với các Tông đồ và trách Tô-ma thiếu lòng tin, thì “Ông Tô-ma thưa Ngài: ‘Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con’” (Ga 20:28). Đơn thuần là Tô-ma muốn tuyên xưng đức tin của ông, không hẳn về việc Chúa Giê-su sống lại từ cõi chết, nhưng còn về thần tính trong ngôi vị của Ngài, điều được minh chứng do sự phục sinh là chứng lý hiển nhiên cuối cùng. Trong ý nghĩa ấy, Đức Giê-su đã trả lời ông: “Tô-ma, vì anh đã thấy Thầy nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin.”
Viết cho Ti-tô (2:12), thánh Phao-lô đã đơn giản gọi Đức Ki-tô là Thiên Chúa khi ngài khích lệ Ki-tô hữu hãy “sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này. Sở dĩ như vậy, là vì chúng ta trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Giê-su Ki-tô là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng Cứu Độ chúng ta, xuất hiện vinh quang.” Điểm đáng chú ý là thánh Phao-lô không nói về hai người khác nhau nhưng ngài muốn nói chỉ duy Đức Ki-tô mới vừa là “Thiên Chúa vĩ đại”, vừa là “Đấng Cứu Độ” chúng ta.
Thánh Gio-an Tông đồ đã hết sức rõ ràng khi ngài viết: “Chúng ta biết rằng Con Thiên Chúa đã đến và ban cho chúng ta trí khôn để biết Thiên Chúa thật và chúng ta ở trong Thiên Chúa thật, ở trong Con của Người là Đức Giê-su Ki-tô. Đức Giê-su Ki-tô là Thiên Chúa thật và là sự sống đời đời.” (1 Ga 5:20).
Không còn khẳng định nào rõ ràng hơn những lời thánh Phao-lô nói về Đức Ki-tô “là Thiên Chúa, Đấng vượt trên mọi sự. Chúc tụng Ngài đến muôn thuở muôn đời” (Rm 9:5).
Trong Kinh Thánh Đức Giê-su Ki-tô không chỉ được gọi là Thiên Chúa mà thôi, nhưng Ngài còn được gán cho những đặc tính mà chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể có và được thuật lại như những hành động thực hiện mà chỉ một mình Thiên Chúa mới làm được. Những đoạn như thế thật nhiều, nhưng chúng ta chỉ nhắc đến một số thật hiển nhiên. Chỉ duy Thiên Chúa mới có quyền phép lớn lao và chỉ có Ngài mới có thể tạo dựng do quyền phép vô cùng của Ngài. Khi nói về Đức Ki-tô, thánh Phao-lô đã viết: “Vì trong Người muôn vật được tạo thành” (Cl 1:16). Và “chỉ có một Chúa là Đức Giê-su Ki-tô, nhờ Người mà vạn vật được tạo thành” (1 Cr 8:6). Và thánh Gio-an đã viết: “Không có Người thì chẳng có gì được tạo thành” (Ga 1:3).
Chỉ có Thiên Chúa mới là vĩnh cửu, nhưng chính Đức Ki-tô lại nói Ngài có trước Áp-ra-ham là người đã sống và đã chết cả hàng trăm năm trước khi Đấng Cứu Thế ra đời (Ga 8:58). Ngài còn nói Ngài có trước khi thế gian được tạo thành (Ga 17:5).
Do đó, không ngạc nhiên khi thấy Đức Ki-tô đòi hỏi người ta phải tôn kính Ngài với sự tôn kính dành cho Thiên Chúa mà thôi (Ga 5:23), và Ngài đã đưa ra những lời hứa mà chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể thực hiện được: “Nếu anh em nhân danh Thầy mà xin Thầy điều gì, thì chính Thầy sẽ làm điều đó” (Ga 14:14).
Ở đây chúng tôi không có ý trích dẫn thật nhiều đoạn Tân Ước để trình bày và xác nhận việc Đức Giê-su Ki-tô là Thiên Chúa thật.
ĐỨC KI-TÔ LÀ NGƯỜI
Tân Ước cũng rõ ràng khi bàn về một sự kiện khác. Đó là Đức Giê-su Ki-tô đã sống như một người phàm thật sự. Lịch sử cuộc đời Ngài và cách cư xử của Ngài với người khác đã được ghi lại chi tiết. Sau phục sinh, khi gặp lại các tông đồ, Ngài đã phản đối họ: “ ‘Sao lại hoảng hốt? Sao lòng anh em còn ngờ vực? Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?’ Nói xong, Ngài đưa tay chân ra cho các ông xem... và Ngài ăn trước mặt các ông” (Lc 24:38-43). Đó là những lời nói của một người đã bị đóng đinh, là người đã cùng sống, cùng ăn uống và cùng ngủ nghỉ với các tông đồ, là người đã làm việc tại Na-da-rét, và là người như một hài nhi được đặt nằm trong máng cỏ. Ngài đã sử dụng cách lý luận thật đơn giản và chắc chắn. “Trong quá khứ anh em đã không nghi ngờ rằng Thầy là người thật sự đã sống trong những năm chúng ta cùng sống với nhau. Vậy thì giờ đây đừng nghi ngờ gì nữa, vì anh em đã nhìn thấy và rờ thấy nên hãy tin.”
Chỉ có những ai muốn coi nhẹ mọi lịch sử chính đáng, thì mới chối nhận con người lịch sử Đức Giê-su Ki-tô không phải là một con người thật sự. Nhưng cùng những sử liệu minh chứng việc thừa nhận Đức Giê-su là con người lịch sử thật sự, thì chính những sử liệu đó cũng minh chứng việc thừa nhận Ngài là một ngôi Thiên Chúa với tất cả những đặc tính của Thiên Chúa.
Từ Kinh Thánh chúng ta biết được rằng: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta... Ngôi Lời là Thiên Chúa” và Ngôi Lời là Đức Giê-su Ki-tô; “Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác... còn ân sủng và sự thật thì nhờ Đức Giê-su Ki-tô mà có” (Ga 1:1-18).
Trình bày về Đức Giê-su Ki-tô, thánh Phao-lô đã nói về Ngài như “Đấng vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân phận nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2:6-8). Đúng như vậy! Đấng là Thiên Chúa do bản tính Thiên Chúa của Ngài đã trở nên người phàm bằng cách mặc lấy bản tính loài người.
TÂM ĐIỂM CỦA KI-TÔ GIÁO
Có chỗ nào trong sách Tân Ước cho thấy sự khác biệt giữa Đức Giê-su Thiên Chúa và Đức Giê-su con người không? Hay có chỗ nào nói lên rằng Ma-ri-a là mẹ của một Giê-su và chúng ta được cứu chuộc nhờ một Giê-su khác không?
Khi chúng ta trả lời câu hỏi “Con của Ma-ri-a là ai?” và trả lời dựa trên những gì Kinh Thánh nói với chúng ta, thì chỉ có thể có một câu trả lời: Ngài là một ngôi vị Thiên Chúa nhưng có cả bản tính Thiên Chúa lẫn bản tính loài người. Hai bản tính của Ngài với hai quyền lực khác biệt không làm cho Ngài trở nên hai người riêng biệt. Ngài là Đức Giê-su Ki-tô, người Con Vĩnh Cửu của Thiên Chúa, là Thiên Chúa thật và là người thật. Đây là sự thật của Mầu Nhiệm Nhập Thể.
Đó là tâm điểm chân lý Ki-tô giáo. Đó là chân lý căn bản, là trọng tâm của Kinh Tin kính Ki-tô giáo. Kitô hữu đã nói đến mầu nhiệm này qua nhiều thế kỷ và người ta đã sớm nhận thức được rằng nếu dùng ngôn ngữ loài người để nói về Đức Giê-su Ki-tô, thì chúng ta phải sử dụng thận trọng cũng như phải nghiêm túc giải thích mầu nhiệm ấy.
Thiên Chúa – một ngôi vị Thiên Chúa – đã mặc lấy thân xác phàm nhân với cơ cấu và những chức năng giống như thân xác mà mỗi người chúng ta đều biết rất rõ. Người đã tự mặc lấy một linh hồn của con người, một trí khôn của con người, những cảm nghĩ và cảm xúc của con người, giống y như chúng ta khi sinh ra đều có những đặc tính chung của một con người. Nhưng không vì thế mà Ngài không còn là Thiên Chúa, Đấng có bản tính hoàn toàn là thiêng liêng, không cần một hình thể cấu thành nào, quyền lực ý chí của Người là toàn năng, trí tuệ của Người là thông biết mọi sự, và sự sống của Người đã có từ trước muôn đời và sẽ tồn tại cho đến mãi mãi thiên thu vạn đại. Thánh Kinh diễn tả Ngài một cách đơn giản là “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1:14).
Ý nghĩa trọng đại của sự thật này bắt đầu soi sáng chúng ta khi chúng ta suy nghĩ rằng: Tất cả điều ấy là thực đối với Thiên Chúa và tất cả điều ấy là thực đối với con người này, tức là với Đức Giêsu Kitô. Những gì là thực đối với bản tính Thiên Chúa và những gì là thực đối với bản tính loài người đều phải được khẳng định về chính Ngài, tức là về Đức Giêsu Kitô. Ngài là vô biên, quyền phép vô cùng, thông biết mọi sự và vĩnh cửu. Và cũng là thực khi Ngài là con người nên cũng phải chết, cũng bị giới hạn về sức lực, có thể cảm thấy mệt nhọc và đau đớn, lệ thuộc vào sự tăng trưởng của hình dáng cơ thể và sự hiểu biết loài người.
Điều đó không có nghĩa là bản tính Thiên Chúa trở thành loài người hay trí khôn không sai lầm của Thiên Chúa trở nên sai lầm, hay bản tính bất tử của Thiên Chúa trở thành phải chết. Thần tính đã không hề biến thành nhân tính. Nhưng có nghĩa là một ngôi Thiên Chúa đã mang lấy bản tính loài người, và nếu ngôn ngữ loài người diễn tả được sự thật, thì những gì Ngài có trong bản tính nhân loại cũng phải là của chính Ngài.
TÂN ƯỚC HỢP LÝ
Với ý nghĩ này, chúng ta có thể bắt đầu thấy rằng những gì coi có vẻ là mâu thuẫn trong một số đoạn Tân ước thì lại thật là hợp lý. Thực sự một lần Đức Ki-tô đã có thể nói về chính Ngài: “Chúa Cha cao trọng hơn Thầy” (Ga 14:28), và lần khác Ngài lại nói: “Tôi và Chúa Cha là một” (Ga 10:30). Vì bản tính loài người của Ngài, Ngài thực sự lêï thuộc vào Thiên Chúa và có thể cầu nguyện cùng với Chúa Cha trên trời, cũng là Cha của mọi người. Rồi vì cùng một bản tính Thiên Chúa với Chúa Cha, nên Ngài ngang hàng và là một với Chúa Cha.
Do bản chất yếu đuối của con người, Ngài có thể đổ mồ hôi máu trước cái chết của Ngài, nhưng do quyền phép vô cùng của bản tính Thiên Chúa, Ngài có thể chỉ phán một lời làm cho người chết sống lại.
Bởi vậy, thánh Phê-rô Tông Đồ đã không vô lý khi ngài tố cáo dân chúng: “Anh em đã giết Đấng khơi nguồn sự sống” (Cv 3:15). Hay thánh Phao-lô cũng không vô lý khi ngài viết về những kẻ đã “đóng đinh Đức Chúa vinh hiển vào thập giá” (1 Cr 2:8). Họ đóng đinh và giết Đức Giê-su Ki-tô là Đấng khơi nguồn sự sống, là Đấng Tạo Hóa bất diệt theo như bản tính Thiên Chúa của Ngài, nhưng cũng là Đấng phải chết theo bản tính loài người hay chết của Ngài.
Vậy rõ ràng là nếu không phải là phi lý khi Phê-rô đã nói Đức Giê-su Ki-tô là Thiên Chúa lúc ngài nói về những những kẻ giết Đấng khơi nguồn sự sống, thì cũng không phi lý khi chúng ta nói về Đức Giê-su Ki-tô là “Thiên Chúa đã chịu cắt bì – Thiên Chúa đã lạc mất cha mẹ Ngài – Thiên Chúa lớn lên trong sự khôn ngoan và khỏe mạnh – Thiên Chúa đã mệt nhọc và nằm ngủ.”
SINH RA BỞI MỘT NGƯỜI PHỤ NỮ
Thánh Phao-lô cũng không đến nỗi phi lý mấy khi ngài nói về việc xuất hiện của Đức Ki-tô, Đấng Cứu Độ, trong những lời sau đây: “Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật” (Gl 4:4). Con Thiên Chúa đã sinh ra bởi một người đàn bà. Ngôi Lời, Đấng là Thiên Chúa, đã trở thành người phàm và cư ngụ giữa chúng ta bằng cách sinh ra bởi một người phụ nữ. Đức Chúa là Thiên Chúa và cứu chuộc chúng ta bằng cái chết trên thập giá, đã sinh ra bởi một người phụ nữ. Người phụ nữ đó là Ma-ri-a, mẹ Ngôi Lời, mẹ Thiên Chúa.
Dẫu vậy, có nhiều người tuy nói một cách thuộc lòng về Ma-ri-a là mẹ Đức Giê-su, lại ngần ngại không muốn gọi Ma-ri-a là mẹ Thiên Chúa. Họ không hiểu hết ý nghĩa của mầu nhiệm Nhập Thể. Không có lý do thích đáng giải thích tại sao một ngôi Thiên Chúa, Đức Giê-su Ki-tô, Đấng thật sự là người, không thể được thụ thai và sinh ra theo như bản tính loài người này. Điều này không có nghĩa là mẹ Ngài, giống như một lọai nữ thần, sẽ làm cho bản tính Thiên Chúa của Ngài trở nên hiện hữu. Cũng không có nghĩa là với tính cách là mẹ của một ngôi Thiên Chúa, Ma-ri-a phải hiện hữu trước Ngài. Đức Ki-tô đã khẳng định rằng Ngài có trước khi Áp-ra-ham sinh ra. Là Thiên Chúa, nên Ngài là vĩnh cửu. Và là con người, nên Ngài bắt đầu sống một cuộc sống loài người khi Ma-ri-a mang thai Ngài. Ma-ri-a đã không có trước Thiên Chúa, nhưng Ma-ri-a có trước khi Thiên Chúa mặc lấy bản tính loài người trong cung lòng của bà.
Nếu không phải là phi lý khi nói Đức Giêsu Kitô, một ngôi Thiên Chúa, đã được mẹ Ngài là Ma-ri-a cho Ngài sự sống loài người, thì cũng không phải là phi lý khi nói cha của Ma-ri-a là ông ngoại của Ngài. Thiên Chúa có ông ngoại không? Nếu đặt câu hỏi này mà không liên hệ gì đến Đức Giê-su Ki-tô, thì câu hỏi này thật là ngớ ngẩn. Nhưng nếu có liên quan đến Đức Giê-su Ki-tô, thì câu trả lời khẳng định sẽ là chân lý phúc âm.
|
Suy Niệm 10 Linh Mục Hồng Phúc, CSsR
×
Lễ Mẹ Thiên Chúa Linh Mục Hồng Phúc, CSsR
Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia
Thiên Chúa đã chọn Maria là Mẹ để nhờ Mẹ trở nên một người giữa loài người chúng ta.
Mẹ là người cưu mang, sinh dưỡng, giáo dục, tác thành cho con. Mẹ Maria đã cưu mang, sinh dưỡng, giáo dục, tác thành Chúa Giêsu là Thiên Chúa, thì Mẹ đã trở nên Mẹ Thiên Chúa. Ðó là điểm chính yếu và căn bản khi nói đến Mẹ Maria.
I. Danh Từ và Lịch Sử
Danh từ "Mẹ Thiên Chúa" không có trong Tân Ước của Thánh Kinh. Danh từ ấy lần đầu tiên được nói lên do thánh Hippolytus ở Rôma năm 235.
Sau đó, Giám Mục Nestorius, Giáo Chủ Constantinople (năm 428) đã phản đối việc áp dụng danh từ ấy cho Ðức Mẹ. Ông phản đối vì ông có một quan niệm rằng Con Thiên Chúa là một đơn vị và con Bà Maria là một đơn vị khác. Nói một cách khác, Chúa Kitô có hai ngôi vị, là Ngôi Thiên Chúa (Ngôi Lời - Logos) và ngôi vị một người là Giêsu. Hiệu quả là, theo Nestorius, không thể gọi Ðức Mẹ là "Theotokos", Mẹ Thiên Chúa được.
Công đồng Êphêsô năm 431 đã khẳng định lại giáo lý của Giáo Hội dạy rằng Chúa Giêsu có hai bản tính: Một là bản tính Ðức Chúa Trời, hai là bản tính loài người. Hai bản tính ấy kết hợp trong một Ngôi duy nhất là Ngôi thứ hai Ðức Chúa Trời.
Công Ðồng kết án Nestorius và những người theo ông. Ðồng thời các nghị phụ đồng thanh chấp nhận nội dung của bức thư thứ hai của Thánh Cyrilô gửi Giám Mục Nestorius và chính thức công nhận tước hiệu Mẹ Thiên Chúa dành cho Ðức Mẹ.
Quyết định quan trọng ấy của Công Ðồng Êphêsô lại được tuyên bố minh bạch thành Tín Ðiều do Công Ðồng Calceđônia năm 451.
II. Nội Dung Tín Ðiều
Tước hiệu Mẹ Ðức Chúa Trời bao hàm những gì?
Sau đây là lời công bố của Công Ðồng Ephêsô năm 431:
"Các nghị phụ không ngần ngại gọi Ðức Trinh Nữ Maria là "Mẹ Ðức Chúa Trời". Không phải vì Mẹ đã sinh hạ thiên tính của Ngôi Lời Thiên Chúa. Mà vì nhờ Mẹ mà Ngôi Lời Thiên Chúa mang một thánh thể với một linh hồn có trí năng mà Ngôi Lời Thiên Chúa đã kết hiệp với trong một Ngôi duy nhất khi sinh hạ trong thể xác.
Nếu ai không tuyên xưng rằng Thiên Chúa chính là Emmanuel và vì thế, Ðức Trinh Nữ Maria là Mẹ Thiên Chúa, kẻ ấy bị vạ tuyệt thông. Vì Ðức Mẹ đã sinh hạ "Ngôi Lời hóa thành nhục thể" khi ban đời sống thể xác". (Công Ðồng Ephêsô).
Thánh Truyền xưa nay vẫn liên kết ba giáo điều sau đây: Chúa Giêsu là Thiên Chúa - Vậy Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa - Nhưng vẫn đồng trinh tuyền vẹn.
Và tín điều đó Công Ðồng long trọng tuyên bố bao hàm những điểm sau đây:
1. Ðức Maria là Mẹ Thiên Chúa: không phải là Mẹ sinh ra bản tính Thiên Chúa mà là Mẹ một người Con chính là Thiên Chúa.
2. Ðức Maria là Mẹ Thiên Chúa: không phải là Mẹ của một người con đã kết hợp với Thiên Chúa hay là đã trở nên Thiên Chúa, mà là Mẹ của Ðấng là Thiên Chúa từ thuở ban đầu.
3. Ðức Maria là Mẹ Thiên Chúa: không phải chỉ là Mẹ sinh hạ thể xác Ðức Giêsu mà thôi, mà là Mẹ của Ðấng đã mặc lấy thân xác nơi Mẹ, là Ðấng có trước Mẹ là Chúa Giêsu.
Ðiều đáng chú ý là khi Công Ðồng bênh vực tước hiệu Theotokos, Mẹ Thiên Chúa, Công Ðồng không nhắm chỉ đề cao Ðức Mẹ mà cách riêng chú trọng và gìn giữ sự duy nhất Ngôi vị nơi Ðức Kitô.
Công Ðồng Ephêsô lên án những ai muốn tách rời, phân chia Ðức Kitô, chỉ coi con người của Ngài mới sinh ra, mới chịu chết cho chúng ta, còn chính Ngài là Con Thiên Chúa thì không. Như vậy, chỉ có một Thiên Chúa và một con người kề sát nhau, chứ không phải là một Ðấng duy nhất là Chúa Giêsu Kitô, Con của Ðức Mẹ. "Tình yêu của Ðấng Cứu Thế bị lột hết ý nghĩa. Ðức Giêsu chỉ là một con người múa rối do Thiên Chúa dựt giây, chớ không phải là Thiên Chúa làm người" (R. Laurentin).
Việc Thiên Chúa mặc xác phàm nhân loại, chịu đau khổ và chịu chết nói lên tình yêu như điên dại của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Loại bỏ điều đó, đức tin không còn gì, chương trình cứu độ sẽ sụp đổ.
Tuy nhiên, có người nói, Thiên Chúa là Ðấng siêu việt, làm sao một thụ tạo lại có thể sinh ra Ðấng dựng nên mình? Thật là một lời lộng ngôn phạm thượng!
Không! Việc làm Cha làm Mẹ không phải chỉ hướng nguyên về thể xác con mà về cả con người. Các Bà Mẹ không ban cho con trí khôn, bản lĩnh. Ðó là công cuộc của Chúa, nhưng các Bà vẫn là những bà mẹ, không phải chỉ là mẹ của thể xác mà các bà cưu mang sinh nở thôi mà là Mẹ của những con người các Bà sinh ra. Ðối với Mẹ Maria cũng vậy. Mẹ là Mẹ của một ngôi vị Thiên Chúa. Mẹ không ban cho Chúa linh hồn thiêng liêng hay ngôi vị Thiên Chúa. Mẹ là Mẹ, không phải chỉ sinh hạ thể xác thôi mà Mẹ đã sinh ra một người con đồng thời chính là Ngôi Hai Con Thiên Chúa. Việc mẫu tính ấy tạo nên một liên hệ duy nhất giữa Mẹ và Con: Ấy là Ðức Chúa Con có thể và phải gọi Mẹ là "Mẹ".
Ðó là ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm Mẹ sinh con mà vẫn còn đồng trinh: Thiên Chúa là Cha Ðức Giêsu và Mẹ là Mẹ Ngài, Con Thiên Chúa nhập thể mà Mẹ đã sinh ra mà vẫn còn đồng trinh toàn vẹn.
Theotokos. Maria là Mẹ Thiên Chúa.
Nhưng chúng ta phải thêm: Maria là Mẹ Thiên Chúa về tính nhân loại. Mẹ không sinh ra bản tính Thiên Chúa. Nhưng Mẹ đã được tuyển chọn để ban cho Thiên Chúa một đời sống thể xác, một thánh thể mà Ngài muốn đảm lãnh để trở nên một người giữa chúng ta "vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi" như chúng ta đọc trong kinh Tin Kính.
"Ðó là một cuộc phiêu lưu cuồng dại" của Thiên Chúa làm cho chúng ta hiểu Ngài thương yêu chúng ta biết chừng nào khi xuống trần gian vì phần rỗi nhân loại.
Thiên Chúa đã đảm nhận thân phận con người, nhưng không làm giảm bớt sự siêu việt, không biến tính sự hằng hữu của Ngài.
(Trích dẫn từ Tác Phẩm "Mẹ Maria" của Lm Hồng Phúc, CSsR,
Nhà Sách Ðức Mẹ Hằng Cứu Giúp tái bản năm 1992)
|
Suy Niệm 11 TGM. Ngô Quang Kiệt
×
Lễ Mẹ Thiên Chúa TGM. Ngô Quang Kiệt
I. Tấm Bánh Lời Chúa
Khi ấy, các mục tử ra đi vội vã đến thành Bêlem, và gặp thấy Maria, Giuse và hài nhi mới sinh nằm trong máng cỏ. Khi thấy thế, họ hiểu ngay lời đã báo về hài nhi này. Và tất cả những người nghe, đều ngạc nhiên về điều các mục tử thuật lại cho họ.
Còn Maria thì ghi nhớ tất cả những việc đó và suy niệm trong lòng. Những mục tử trở về, họ tung hô ca ngợi Chúa về tất cả mọi điều họ đã nghe và đã xem thấy, đúng như lời đã báo cho họ.
Khi đã đủ tám ngày, lúc phải cắt bì cho con trẻ, thì người ta gọi tên Người là Giêsu, tên mà thiên thần đã gọi trước khi con trẻ được đầu thai trong lòng mẹ.
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Chúng ta đang sống trong một thế giới đầy biến động. Những biến động của năm cũ khiến ta phải lo âu khắc khoải tự hỏi: Năm mới sẽ đi về đâu ? Trong niềm băn khoăn khắc khoải đó, Giáo hội mời gọi ta hãy chiêm ngắm Đức Mẹ để tìm được hướng đi trong năm mới vừa khởi đầu.
Khi sinh ra Chúa Giêsu, Đức Mẹ đã sống trong những biến động lớn lao. Biết bao biến cố dồn dập xảy đến. Giữa những biến động ấy, Đức Mẹ vẫn giữ tâm hồn trầm lắng: quan sát, “ghi nhớ tất cả những điều ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng”. Đó là một mẫu gương của người luôn suy niệm Lời Chúa để tìm thánh ý Thiên Chúa, và từ đó tìm một hướng đi chính xác cho đời mình.
Đức Mẹ ghi nhớ và suy niệm vì biết Chúa là chủ lịch sử. Vì yêu thương Chúa đã sắp xếp cho con người một chương trình tốt đẹp. Khi con người hư hỏng làm sai, Chúa lại tìm cách cứu chữa. Riêng bản thân Đức Mẹ đã cảm nghiệm: từ việc truyền tin đến việc sinh ra Chúa Giêsu, từ việc các thiên thần ca hát đến việc các mục đồng chúc mừng, từ việc ba vua đến thờ lạy đến việc phải đưa Chúa Giêsu trốn sang Ai cập, tất cả đều nằm trong chương trình của Thiên Chúa. Chương trình bầy tỏ lòng Chúa yêu thương muốn cứu chuộc con người, vì hạnh phúc của con người.
Đức Mẹ ghi nhớ và suy niệm để cộng tác với Chúa. Đức Mẹ luôn ngoan ngoãn thi hành những điều Chúa dạy. Thánh ý Chúa được Đức Mẹ tìm thấy qua những biến cố như kê khai hộ tịch, như trốn sang Ai cập. Thánh ý Chúa được Đức Mẹ thấy qua lề luật, như phải dâng con vào Đền Thờ, phải cho con trẻ chịu phép cắt bì. Thánh ý Chúa được Đức Mẹ thấy rõ ràng qua lời thiên thần truyền, như việc thụ thai sinh con trai, như việc đặt tên cho Chúa Giêsu. Sau khi biết rõ thánh ý Chúa, Đức Mẹ đã mau mắn thi hành. Nhờ thế chương trình của Chúa được thực hiện.
Đức Mẹ ghi nhớ và suy niệm để cộng tác với mọi người. Biết những người mình gặp gỡ đều do Chúa gửi đến nên Đức Mẹ sẵn sàng đón tiếp và cộng tác với mọi người. Từ thiên thần Gabriel cho đến bà thánh Elizabét Từ thánh Gioan Baotixita cho đến thánh Giuse. Từ ba vua cho đến hoàng đế Augusto. Từ thiên thần ca hát cho đến mục đồng thờ lạy. Tất cả đều được Đức Mẹ đón tiếp và cộng tác để làm cho chương trình của Chúa được nên trọn.
Năm Mới vừa mở trang đầu tiên trước mắt chúng ta. Để năm mới được hoàn toàn tốt đẹp, ta hãy noi gương Đức Mẹ ghi nhớ và suy niệm những biến cố để tìm thánh ý Chúa. Đặc biệt trong Năm Lời Chúa ta hãy siêng năng suy niệm Lời Chúa. Chuyên chăm đọc, suy niệm Lời Chúa sẽ giúp ta tìm được thánh ý Thiên Chúa. Hãy nhận biết Chúa làm chủ lịch sử. Năm mới là món quà Chúa ban tặng cho ta với những chương trình tốt đẹp của Chúa. Nhưng để chương trình được thực hiện, Chúa cần nhờ sự cộng tác của ta. Và sau cùng ta phải cộng tác với mọi người. Mỗi người là một mắt xích trong kế hoạch của Chúa. Mỗi người có một vai trò trong chương trình của Chúa. Cần phải hợp tác với nhau, mỗi người một việc, để chương trình của Chúa được thực hiện.
Nhìn vào các chủng sinh ta càng thấy rõ sự quan phòng của Chúa. Mỗi ơn gọi là một mầu nhiệm. Mỗi ơn gọi là một lịch sử. Chính ơn Chúa kêu gọi từng người. Chính bàn tay quan phòng yêu thương của Chúa sắp xếp từng phút giây của cuộc đời chủng sinh. Với chủng viện, Chúa muốn có một chương trình tốt đẹp cho Dân Chúa. Nhưng chương trình đó chỉ được thực hiện với sự cộng tác của từng cá nhân. Và chương trình đó chỉ được thực hiện với sự hợp tác của nhiều người. Hiểu rõ điều ấy, nên Đại chủng viện thánh Giuse Hà nội hôm nay tổ chức ngày cầu nguyện cho các ân nhân. Xin Chúa ban dồi dào ơn lành để chúng ta hiểu biết thánh ý Chúa, cộng tác với ơn Chúa, và cộng tác với nhau để cho chương trình tốt đẹp của Chúa được thực hiện.
Lạy Chúa, chúng con xin dâng năm mới này cho Chúa. Xin Chúa thương chúc lành và cho chúng con biết dùng năm mới này thực hiện chương trình của Chúa.
Suy niệm 2
Đầu năm mới, ta cầu chúc cho nhau những điều tốt đẹp nhất. Ta cầu chúc vì hi vọng những lời cầu chúc sẽ thành hiện thực và năm mới sẽ tốt đẹp. Hòa nhịp với niềm hi vọng của mọi người, Giáo hội dâng ngày đầu năm mới tôn kính Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa. Mẹ là người sinh ra niềm hi vọng. Vì sinh ra con cái chính là sinh ra niềm hi vọng. Mừng lễ Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa là lời cầu nguyện cho niềm hi vọng trong năm mới. Vì Đức Mẹ sinh ra Chúa Giêsu là nguồn mạch mọi hi vọng. Chúa Giêsu ra đời mở đầu một thời đại mới, đem lại cho nhân loại niềm hi vọng mới.
Đó là niềm hi vọng thay đổi số phận. Kiếp sống con người quá vất vả. Định mệnh con người quá khắc nghiệt. Tội lỗi giam hãm làm cho tương lai con người lâm vào cảnh tối tăm không lối thoát. Chúa Giêsu sinh xuống làm người đã thay đổi số phận con người. Bản tính Thiên Chúa kết hợp với bản tính nhân loại đã mở ra cho con người một tương lai tươi sáng. Con người được nâng lên hàng con Thiên Chúa. Định mệnh con người rạng rỡ vì được chung phần gia nghiệp với Thiên Chúa. Tương lai con người tươi sáng vì được hưởng hạnh phúc với Chúa. Chúa Giêsu đã gieo mầm hi vọng vào kiếp sống vô vọng. Ngài đã gieo mầm thần linh vào kiếp sống phàm trần. Ngài đã gieo mầm vĩnh cửu vào cõi đời tạm bợ.
Đó là niềm hi vọng được sống hòa bình. Từ khi chống lại Thiên Chúa, con người sống trong bất hòa với nhau. Thế giới chưa bao giờ có hòa bình trọn vẹn. Hòa bình luôn là một ước vọng hầu như vô vọng. Chúa Giêsu xuống trần đem lại niềm hi vọng hòa bình. Ngài đã hòa giải con người với Thiên Chúa và hòa giải con người với nhau. Nếu tội lỗi của con người là bất hiếu, chống lại Thiên Chúa, thì Chúa Giêsu đã hòa giải bằng cách sống trọn vẹn tâm tình hiếu thảo với Chúa Cha, vâng lời Chúa Cha trong mọi sự. Nếu bất hòa giữa con người do tự ái và ích kỷ, tranh chấp quyền lợi, thì Chúa Giêsu đã hòa giải bằng cách quên mình, hiến mình phục vụ anh em, sẵn sàng hiến tất cả, hiến cả mạng sống mình cho anh em. Ngài đã gieo mầm hòa bình. Ngài đem đến niềm hi vọng hòa bình cho nhân loại.
Đó là niềm hi vọng được yêu thương. Cuộc sống càng phát triển lại càng khốc liệt. Thương trường đã biến thành chiến trường. Con người cạnh tranh với nhau đã làm cho cuộc sống trở nên khô cứng. Con người trở nên địch thủ của nhau. Và ai cũng mong chờ một thế giới có tình người, dễ cảm thông chan hòa, dễ sống hơn. Chúa Giêsu xuống trần đã mở ra một thế giới chan hòa tình yêu thương. Ngài không chỉ rao giảng tình yêu thương nhưng đã sống tình yêu thương với mọi người. Tình yêu thương chia sẻ kiếp người, tha thứ cho người tội lỗi, bạn bè với những người cùng khổ. Và nhất là Ngài đã hiến thân chịu chết vì nhân loại. Ngài đã chiếu lên làn ánh sáng yêu thương. Ngài đã đốt lên ngọn lửa yêu thương. Ngài đã ủ men yêu thương vào thúng bột thế giới.
Các chủng sinh là niềm hi vọng của chúng ta vì các thày sẽ trở thành các linh mục, tiếp tục công việc của Chúa Giêsu gieo niềm hi vọng vào thế giới. Thật là ý nghĩa khi chủng viện chọn ngày đầu năm mới, kính nhớ Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, làm ngày cầu nguyện cho các ân nhân của chủng viện. Thật vậy, nếu Đức Mẹ sinh ra Chúa Giê su là niềm hi vọng cho chúng ta, thì các cha giáo, các cha mẹ, các vị ân nhân cũng sinh ra các chủng sinh là niềm hi vọng nối tiếp niềm hi vọng của Chúa Giêsu. Nhưng cũng như Đức Mẹ phải nuôi dưỡng Chúa Giêsu trong ba mươi năm, các cha giáo, các cha mẹ, ân nhân và chủng viện cũng phải vất vả nâng đỡ chủng sinh để hạt mầm hi vọng sẽ lớn lên và sinh hoa kết quả tốt đẹp. Như thế chúng ta cộng tác với Đức Mẹ trong việc sinh ra niềm hi vọng cho thế giới. Như thế chúng ta cộng tác với Chúa Giêsu trong việc xây dựng niềm hi vọng biến đổi thế giới. Trong tâm tình đó, xin cầu chúc Cha Giám đốc, quý cha giáo, tất cả các bậc cha mẹ của các chủng sinh, các vị ân nhân một năm mới tràn đầy ơn Chúa và Mẹ Maria.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1- Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa đó là một vinh dự lớn lao đồng thời là một niềm hi vọng vững chắc cho con người. Bạn cảm nhận ân huệ này thế nào?
2- Đức Mẹ đã sinh ra một thế giới mới. Bạn có góp phần đổi mới thế giới không?
3- Ngày đầu năm ai cũng mong ước hòa bình. Bạn làm gì để góp phần xây dựng hòa bình thế giới
|
Suy Niệm 12 Sưu Tầm
×
Lễ mẹ Thiên Chúa
Chúng ta hãy nhìn lên Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa và đặt năm mới vừa bắt đầu dưới dấu hiệu tình mẫu tử của Mẹ, xin Mẹ trải rộng tình thương ôm ấp tất cả mọi người chúng con, đặt chúng con dưới sự bảo vệ của Mẹ trong suốt năm mới này.
Suy niệm về tình mẫu tử của Mẹ, Giáo Hội mời gọi chúng ta trở về bên Mẹ tại nơi Chúa sinh ra, nhìn ngắm và bắt chước thái độ sống của Mẹ trước mầu nhiệm Con Thiên Chúa Nhập Thể để cứu rỗi con người.
Với thành tâm thiện chí, chúng ta noi gương các mục tử đến chiêm ngắm mầu nhiệm của Con Thiên Chúa làm người sống giữa chúng ta, Ngài sinh ra bởi người nữ đồng trinh, tuân hành những luật lệ của một dân tộc, sống nếp sống bình thường của con người, lớn lên trong khung cảnh gia đình. Các mục tử đã không hiểu gì về mầu nhiệm Con Thiên Chúa làm người vừa mới được thiên thần Chúa loan báo cho họ, song họ đã vâng phục lời loan báo này và đến thờ lạy, suy phục trước mầu nhiệm. Phúc âm theo thánh Luca kể tiếp: “Sau khi đã gặp thấy con trẻ và Mẹ Maria, thánh Giuse như đã được loan báo, các mục tử hân hoan ra về và không ngừng dâng lời chúc tụng Thiên Chúa”.
Thử hỏi chúng ta có được thái độ sống như vậy hay không? Mầu nhiệm Thiên Chúa Nhập Thể đã được loan báo cho chúng ta và chính chúng ta trong thời gian qua chắc chắn cũng đã được chiêm ngưỡng những giây phút của ân sủng tác động trong chính cuộc đời mình, đã được chiêm ngưỡng và cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời, mặc dầu chúng ta không hiểu được gì nhiều về mầu nhiệm Thiên Chúa được tỏ bày cho chúng ta, nhưng chúng ta có được tâm hồn vâng phục kính tin đón nhận mầu nhiệm như các mục tử ngày xưa hay không?
Hiện diện trước mầu nhiệm Con Thiên Chúa làm người, chúng ta còn có thể nhìn ngắm và noi gương sống của Mẹ Maria. Như các mục đồng, Mẹ Maria đã không hiểu nhiều về mầu nhiệm mà chính Mẹ đã được Thiên Chúa mời gọi cộng tác vào đó, nhưng Mẹ không kiêu ngạo đóng kín tâm hồn mình, cũng không thách thức Thiên Chúa đòi buộc Ngài giải thích tường tận. Mẹ khiêm tốn hiện diện với mầu nhiệm đang xảy ra trong cuộc đời Mẹ, Mẹ lưu giữ mọi sự và hằng suy niệm trong lòng.
Tình thương, lòng khiêm tốn và sự sẵn sàng cộng tác với chương trình của Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh, đó là điều mà chúng ta những đồ đệ của Chúa Giêsu được mời gọi học lấy nơi Mẹ trong ngày lễ mừng kính Mẹ là Mẹ Thiên Chúa hôm nay, khởi đầu một giai đoạn mới, thời gian mới, một năm mới.
Lạy Mẹ Maria, chúng con cám ơn Mẹ đã chấp nhận cộng tác vào chương trình của Thiên Chúa để chúng con có một Đấng Cứu Chuộc. Chúng con khâm phục thái độ của Mẹ trước mầu nhiệm Con Thiên Chúa Nhập Thể, chúng con muốn noi gương sống như Mẹ, muốn khiêm tốn cộng tác vào chương trình hành động của Thiên Chúa trong lịch sử nhân loại, xin Mẹ giúp chúng con được nhìn thấy những kỳ công Thiên Chúa đã và còn đang thực hiện trong đời sống chúng con và không ngừng suy niệm những kỳ công đó với niềm yêu mến, cảm tạ Thiên Chúa như Mẹ. Amen.
|
Suy Niệm 13 ĐM. Cao Tấn Tĩnh, BVL
×
Khi đến thời điểm ấn định ĐM. Cao Tấn Tĩnh, BVL
"Chúng ta đã được thấy vinh hiển của Người"
tỏ hiện ra nơi Thiên Mẫu.
Nếu dân Do Thái được Thiên Chúa dùng Aaron và các con cái tư tế của ông chúc lành cho bằng câu: "Chúa tỏ thiên nhan của Ngài chiếu soi trên các người và tỏ lòng sủng ái đối với các người" (bài đọc 1), thì Mẹ Maria qủa là Đấng được "đầy ơn phúc" (Lk.1:28). Bởi vì cả con người của Mẹ đã được "Chúa tỏ thiên nhan của Ngài" ra cho, đó là khi Con Thiên Chúa "là phản ảnh vinh quang Cha, là hiện thân đích thực của hữu thể Cha" (bài đọc 2 Thánh Lễ Giáng Sinh Ban Ngày) được thụ thai trong cung lòng trinh nguyên của Mẹ.
Đúng thế, "khi đến thời điểm ấn định, Thiên Chúa đã sai Con Ngài do một người nữ sinh ra" (bài đọc 2). Như thế, "Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta", "được đặt tên là Giêsu" (Phúc Âm), trước hết đã ở với cá nhân Mẹ Maria, nhờ đó, Mẹ Maria cũng chính là con người đầu tiên "được thấy vinh hiển của Người". Đến khi "vinh hiển của Người" tỏ ra cho các mục đồng, Mẹ "đã nhìn thấy vinh hiển của Người" qua việc Mẹ "lưu giữ tất cả những điều này mà suy niệm trong lòng" (Phúc Âm).
Thật ra, theo tác dụng ân sủng, Mẹ Maria đã "nhìn thấy vinh hiển của Người" trước hết mọi người. Ở chỗ, trong cả loài người sa đọa (x.Rm.5:12), chỉ có duy một mình Mẹ được hưởng trước ơn cứu độ, "được hưởng tình trạng làm con cái thừa nhận" (bài đọc 2), đó là Đặc Ân Vô Nhiễm Nguyên Tội ngay từ khi Mẹ được đầu thai trong lòng thai mẫu, như Giáo Hội tuyên tín qua Tông Hiến "Ineffabilis Deus" của Đức Piô IX ban hành ngày 8-12-1854.
Phải chăng đó là lý do Lễ Mẹ Thiên Chúa, trước kia được kính vào ngày 11-10 hằng năm, nhưng sau Công Đồng Chung Vaticanô II, một Công Đồng đã khại mạc vào chính Lễ Mẹ Thiên Chúa 11/10/1962, theo lịch trình canh tân Phụng Vụ, Giáo Hội đã chuyển lễ này vào ngay ngày đầu năm Dương Lịch, 1-1, như đã được nhắc lại trong Tông Huấn "Marialis Cultus" (số 5) của Đức Phaolô VI ban hành ngày 2-2-1974 về Việc Tôn Sùng Đức Trinh Nữ Maria.
Về diễm phúc đóng vai trò làm Mẹ Thiên Chúa, qua câu Chúa Giêsu trả lời cho một người đàn bà lên tiếng khen Mẹ Maria trước mặt Chúa: “Phúc thay cho lòng đã cưu mang Thày và vú đã cho Thày bú” là “Phúc hơn cho kẻ nghe lời Thiên Chúa mà giữ lấy” (Lk 11:28), trước hết, Người xác nhận Mẹ Maria thật sự đã sinh ra Người theo bản tính loài người, qua việc Mẹ đã cưu mang Người và cho Người bú mớm, thứ hai, Người đã ngầm khen Mẹ Maria đã thực sự làm Mẹ Người chẳng những là một Con Người mà còn là một Vị Thiên Chúa nữa, bởi vì Mẹ đã luôn luôn nghe và giữ lời Thiên Chúa. Đó là lý do, cũng theo Phúc Âm Thánh Luca thuật lại, vào một lần trước đó Chúa Giêsu đã khẳng định với những ai báo cho Người biết có Mẹ Người và anh chị em Người đến muốn gặp Người rằng: “Mẹ của Tôi và anh em của Tôi là những người nghe lời Thiên Chúa mà giữ lấy” (Lk 8:21).
Thế nhưng, có một vị nữ tu đã giảng cho giới trẻ của một hội đoàn thuộc TGP/LA trong một khóa tĩnh huấn vào cuối tuần Lễ Tạ Ơn ở Riverside cách đây năm năm rằng Mẹ Maria chỉ là Mẹ của Chúa Giêsu mà thôi chứ không phải là Mẹ của Thiên Chúa, bằng không Mẹ Maria là Mẹ của cả Chúa Cha và Chúa Thánh Thần nữa?
Chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều biết có tất cả bốn Tín Điều về Đức Mẹ được Giáo Hội tuyên bố: thứ nhất là tin điều Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa, một đặc ân là nguồn gốc và bao gồm các đặc ân khác của Mẹ, được Công Đồng Chung Êphêsô tuyên nhận năm 431; thứ hai là tín điều Mẹ Maria trọn đời đồng trinh, cả trước khi, đang khi và sau khi sinh Chúa Giêsu, liên quan đến thân xác của Mẹ, được Công Đồng Chung Latêranô tuyên xưng năm 649; thứ ba là tín điều Mẹ Maria đầu thai Vô Nhiễm Nguyên Tội, liên quan đến linh hồn của Mẹ, được Đức Thánh Cha Piô IX long trọng tuyên bố ngày Lễ Mẹ Vô Nhiễm 8/12/1854; và thứ tư là tín điều Mẹ Maria được Mông Triệu về trời cả hồn lẫn xác liên quan đến cả hồn và xác của Mẹ, được Đức Thánh Cha Piô XII long trọng tuyên bố vào ngày Lễ Các Thánh 1/11/1950.
Riêng về việc Giáo Hội tuyên tín Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa, vì muốn bác bỏ lạc thuyết Nestôriô là lạc thuyết chủ trương Mẹ Maria chỉ là Mẹ của Chúa Kitô mà thôi, tức là mẹ của Chúa Kitô về nhân tính. Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo số 495 đã xác nhận đức tin của mình về Mẹ Thiên Chúa như sau: “Thật thế, Đấng Mẹ thụ thai như một con người bởi Chúa Thánh Thần đã thực sự trở nên Con của Mẹ theo xác thể cũng chính là Con hằng hữu của Thiên Chúa, ngôi hai trong Ba Ngôi Thiên Chúa. Bởi thế Giáo Hội mới tuyên xưng Maria thực sự là ‘Mẹ Thiên Chúa’ vậy”. Tóm lại, nếu Trinh Nữ Maria nhờ quyền phép Chúa Thánh Thần thực sự đã thụ thai và hạ sinh một con người lịch sử mang tên Giêsu, Đấng Kitô hữu chúng ta tuyên xưng “là Thiên Chúa thật và là người thật”, chứ không phải chỉ là một con người thuần túy như chúng ta, hay là một con người được thần linh hóa như Gioan Tẩy Giả ngay từ trong lòng thai mẫu, đến nỗi đã làm cho dân Do Thái tưởng thánh nhân là Đấng Thiên Sai (x Jn 1:19-25), thì Mẹ Maria thực sự vừa là Mẹ của Chúa Giêsu vừa là Mẹ Thiên Chúa vậy.
Mỗi lần nghĩ đến Thiên Chức Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa, tôi cảm thấy thân phận loài người chúng ta thật sự là một thân phận có phúc hơn hết mọi tạo vật, kể cả loài thiên thần thiêng liêng sáng láng tốt lành hơn chúng ta về bản tính tự nhiên, đến nỗi, như Sách Khải Huyền ở đoạn 12, câu 4 cho thấy, đã làm cho vị thiên thần thượng đẳng phải ghen tức, dám ngang nhiên đứng lên chống lại Thiên Chúa. Vai trò Mẹ Maria là loài người được làm Mẹ Thiên Chúa và có thể làm Mẹ Thiên Chúa cho chúng ta thấy một thực tại hết sức cao cả mà lại hiển nhiên, đó là thực tại về thân phận của loài người chúng ta đối với Thiên Chúa chẳng khác gì như thân phận của một người nữ vậy, tức là một thân phận đóng vai trò thụ nhận tất cả những gì Thiên Chúa muốn thông ban cho tạo vật của Ngài, bằng việc loài người chúng ta thụ thai ơn Chúa ban, cưu mang lời Chúa dạy, và hạ sinh chứng thần linh, tức là việc chúng ta làm sao để có thể sinh Chúa Kitô ra nơi các linh hồn, hay nói cách khác, tức là làm cho Chúa Kitô được thế gian nhận biết và yêu mến, nhờ đó các linh hồn được cứu rỗi, được sự sống trường sinh.
Tuy nhiên, để có thể thụ thai, cưu mang và hạ sinh Con Đấng Tối Cao, Mẹ Maria đã là một Trinh Nữ Xin Vâng thế nào, Kitô hữu chúng ta chẳng những phải hoàn toàn tinh tuyền không biết đến nam nhân như Mẹ, tức không biết đến, không quyến luyến bất cứ tạo vật nào ngoài Chúa, mà còn phải liên lỉ thần hiệp với Thiên Chúa, sẵn sàng tuân phục Thánh Ý Chúa trong mọi sự nữa. Đúng thế, như Chúa Giêsu khẳng định trong Phúc Âm Thánh Luca đoạn 8 câu 21, mẹ của Người là những ai nghe lời Thiên Chúa mà giữ lấy, thì một khi chúng ta sống đời Xin Vâng như Mẹ chúng ta quả thực cũng là Mẹ Chúa Kitô, tức cũng có liên hệ thần linh với Con Thiên Chúa, ở chỗ nên một với Người trong Thánh Ý Cha của Người, nhờ đó chúng ta có khả năng thần linh để sinh Người ra cho các linh hồn được ơn cứu độ.
Tóm lại, thân phận và ơn gọi của loài người nói chung và của phụ nữ nói riêng đã được hoàn toàn sáng tỏ nơi vai trò Mẹ Maria làm Mẹ Thiên Chúa, tức là loài người chúng ta được dựng nên là để lãnh nhận hay để thông phần vào Sự Sống Thần Linh của Thiên Chúa qua các Bí Tích Thánh, cũng như được kêu gọi để chia sẻ Sự Sống Thần Linh này ra cho các linh hồn, bằng Chứng Từ Đức Tin của mình. Thật vậy, nếu trong Mầu Nhiệm Tạo Dựng, Thiên Chúa đóng vai chủ động trong việc tự ý tạo thành và loài người đóng vai nam nhân nơi Adong xuất hiện một cách thụ động, thì trái lại, trong Mầu Nhiệm Nhập Thể và Cứu Thế, Thiên Chúa đóng vai thông ban một cách nhưng không và loài người đóng vai nữ nhân nơi Maria một cách chủ động và tích cực cộng tác.
Ôi, cao cả biết bao, mầu nhiệm biết bao, tuyệt vời biết bao: thân phận con người được dựng nên để được làm Mẹ Thiên Chúa! Vậy, cùng với Mẹ Maria chúng ta hãy dâng lời “Ngợi Khen” ”Thiên Chúa là Đấng toàn năng đã làm cho tôi những điều trọng đại, Danh Ngài là Thánh” (Lk 1:49).
Lạy Cha chúng con ở trên trời, Cha là "Thiên Chúa xót thương và ban phúc lành cho chúng con" (đáp ca), bởi thế, "trong thời sau hết này, (Cha) đã (tỏ mình cho nhân loại chúng con qua) Người Con là phản ảnh vinh quang của Cha, là hiện thân đích thực của hữu thể Cha" (bài đọc 2 Lễ Giáng Sinh Ban Ngày). Thế nhưng, trong tất cả mọi tạo vật nói chung và loài người chúng con nói riêng,chỉ có một mình Mẹ Maria là tạo vật diễm phúc nhất, vì Mẹ đã được Cha tiền định cho làm Mẹ của Con Cha. Xin Cha cho chúng con thấu hiểu được thân phận tạo vật của chúng con, đối với Cha là Thiên Chúa hằng sống muốn thông mình ra, như Mẹ Maria, chỉ là "một người nữ" (bài đọc 2), một thân phận tiêu biểu cho ơn gọi phổ quát của loài người tạo vật là "xin vâng" (Lk.1:38), trong việc chấp nhận mọi sự theo Thánh Ý của Cha, để Thần Linh Cha có thể hoàn toàn chiếm dùng chúng con trong việc thông ban "Chúa Kitô: Sự Sống Tỏ Hiện" cho trần gian.
|
Suy Niệm 14 Nguồn: JM. Lam Thy ĐVD.
×
Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời Nguồn: JM. Lam Thy ĐVD.
Theo luật của Do-thái giáo, khi một con trẻ (nam giới) được tám ngày tuổi thì phải đem trẻ tới Đền Thờ để chịu phép cắt bì và đặt tên. Vì Ngôi Lời Nhập Thể làm người, nên Đức Maria và Thánh Cả Giu-se cũng giữ đúng luật: “Khi Hài Nhi được đủ tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ cắt bì, người ta đặt tên cho Hài Nhi là Giê-su; đó là tên mà sứ thần đã đặt cho Người trước khi Người được thụ thai trong lòng mẹ.” (Lc 2, 21). Sự kiện tôn trọng và giữ đúng Lề Luật đã được Đức Giê-su chính thức ghi nhận khi Người bắt đầu công khai rao giảng Tin Mừng: “Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn Lề Luật. Vì, Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành.” (Mt 5, 17-18). Và Lịch Phụng vụ Giáo Hội đã gọi ngày Đức Giê-su chịu phép cắt bì là ngày Lễ Cắt Bì và Đặt Tên. Nhưng vì sao ngày lễ này còn được gọi là lễ Thánh Maria Mẹ Thiên Chúa?
Tước hiệu Ðức Maria Mẹ Thiên Chúa là một tước hiệu đã có từ lâu đời trong Giáo Hội. Ngay từ những thế kỷ đầu tiên, các Ki-tô hữu đã cầu khẩn Đức Maria dưới tước hiệu “Theotokos” – Đức Mẹ Chúa Trời. Tuy nhiên, vào thế kỷ V, giáo chủ Nes-tô-ri-ô (phái Thệ Phản) đã phản kháng, không công nhận tước hiệu Mẹ Thiên Chúa của Ðức Trinh Nữ Maria. Theo Nes-tô-ri-ô, chỉ nên gọi Maria là Mẹ của Ðức Giê-su Ki-tô, chứ không được gọi là Mẹ Thiên Chúa. Một cuộc xung đột tư tưởng lớn đã xẩy ra trong Giáo Hội xoay quanh việc Ngôi Lời nhập thể và danh xưng Mẹ Thiên Chúa của Đức Trinh Nữ Maria. Kể cũng kỳ khôi khi một lý luận như vậy cũng có nhiều người a dua theo. Họ quên mất một điều là đã làm tới chức Giáo chủ, tức là Nes-tô-ri-ô đã tin thật Đức Giê-su là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật giáng trần cứu độ nhân loại. Tin Đức Giê-su là Thiên Chúa mà người sinh ra Đức Giê-su không được gọi là Mẹ Thiên Chúa! Một mâu thuẫn trong lý luận lạ lùng đến ngớ ngẩn!
Có thể họ lập luận như vậy vì cho rằng 2 bản vị Thiên Chúa và loài người không thể cùng tồn tại trong một con người. Nói khác hơn, họ cho rằng Thiên Chúa là Đấng vô hình đã dựng nên nhân loại từ bụi đất thì “Cái vỏ bằng đất” Maria không thể sinh ra Thiên Chúa được. Mới thoạt nghe thì thấy cũng có lý, nhưng phải trở lại nguyên ủy của vấn đề: Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng Hằng Hữu chỉ phán một lời là dựng nên cả vũ trụ và con người. Tại sao Người không phán một lời để cứu rỗi nhân loại mà lại phải sai Con Một xuống thế “chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy.” (Mt 16, 28; Mc 9, 1; Lc 9, 22)? Ấy cũng bởi vì với “con mắt thịt”, loài người chỉ thích được “thực mục sở thị” (trông thấy nhãn tiền) mới tin, nếu chỉ phán một lời thì nhân loại không thấy được nên tất nhiên là họ không tin. Vì thế, rất cần một con người bằng xương bằng thịt thực hiện công trình cứu độ, con người đó tất nhiên là chàng thanh niên Giê-su Na-da-ret với 2 bản vị (Thiên tính + nhân tính) đã trở nên một: Ngôi Lời Nhập Thể.
Tuy nhiên, vì Thệ phản là một phái có thế lực, nên vào năm 431, Hội Thánh đã triệu tập Công đồng Ê-phê-sô dưới sự chủ tọa của thánh Cyrillô (Thượng phụ giáo chủ thành Alexandria), đại diện Đức Giáo Hoàng. Các nghị phụ trong Công đồng này đã tuyên bố giải nhiệm chức giáo chủ của Nes-tô-ri-ô và phủ nhận hoàn toàn giáo thuyết sai lầm của ông ta. Công đồng Ê-phê-sô đã định tín: “Tuyệt thông cho những ai không tuyên xưng rằng Đấng Emmanuel thực sự là Thiên Chúa, và bởi thế, Đức Trinh Nữ là Mẹ của Thiên Chúa (Theotokos) (vì Mẹ đã hạ sinh Ngôi Lời Thiên Chúa hóa thành nhục thể theo xác thịt)”. Tín điều này tiên vàn tuyên xưng rằng Đấng Em-ma-nu-en (Thiên Chúa ở cùng chúng ta) đã thực sự giáng trần “ở cùng loài người” để cứu độ nhân loại, nên thực sự Người đã hóa thành nhục thể trong lòng Đức Maria. Nói cách khác, khi tuyên xưng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, Hội Thánh cũng khẳng định rằng Ngôi Lời đã thực sự trở thành con người, do một bà mẹ trần gian sinh ra.
Giáo điều ấy liên tục được các Đức Giáo Hoàng tuyên xưng. Điển hình như: Đức Giáo Hoàng Pi-ô XI, đã ban hành Thông điệp “Mediator Dei” mừng kỷ niệm 1.500 năm Công Đồng Ê-phê-sô và công bố lễ Mẹ Thiên Chúa, mừng trong toàn thể Giáo Hôi vào ngày 11/10. Bước sang thế kỷ XX, Đức Thánh Cha Pi-ô XII đã thiết lập Năm Thánh Mẫu vào năm 1954 và tuyên bố rằng thiên chức Mẹ Thiên Chúa là nguồn gốc tất cả mọi ân sủng và đặc sủng của Mẹ Maria. Đặc biệt là Công Đồng Va-ti-ca-nô II đã dành cả chương VIII trong Hiến chế về Giáo Hội “Lumen Gentium”, nói về Mẹ Thiên Chúa. Đồng thời với Hiến chế về Mục Vụ “Gaudium et Spes” (số 22-23), Công Đồng còn khẳng định: “Chính Con Thiên Chúa khi nhập thể, một cách nào đó đã kết hợp với tất cả mọi người. Người đã làm việc với bàn tay con người, đã suy nghĩ bằng trí óc con người, đã hành động với ý chí con người, đã yêu mến bằng quả tim con người. Sinh bởi trinh nữ Maria, Người đã thực sự trở nên một người giữa chúng ta, giống chúng ta mọi sự, ngoại trừ tội lỗi.” Và trong Hiến Chế về Phụng Vụ, các Nghị Phụ Công Đồng đã chuyển lễ Mẹ Thiên Chúa từ ngày 11/10 sang ngày 01/01 hàng năm (Tết dương lịch).
Gần đây nhất, Đức GH Bê-nê-đic-tô XVI trong Tông huấn Lời Chúa “Verbun Domini” (số 20) cũng khẳng định: “Vì Đức Maria hoàn toàn thấm nhuần lời Chúa, nên ngài có khả năng trở thành Mẹ của Lời Nhập Thể … Khi chiêm ngưỡng nơi Mẹ Thiên Chúa một cuộc đời hoàn toàn do Lời lên khuôn, ta hiểu được rằng cả ta nữa cũng được mời gọi bước vào mầu nhiệm đức tin, nhờ đó, Chúa Ki-tô tới cư ngụ trong đời ta. Thánh Am-brô-si-ô nhắc nhở ta rằng xét theo một phương diện nào đó, mọi tín hữu Ki-tô đều tượng thai và sinh hạ Lời Thiên Chúa: mặc dù chỉ có Mẹ Thiên Chúa là tượng thai bằng xương bằng thịt, còn chúng ta, Chúa Ki-tô là con cái của mọi người chúng ta trong đức tin. Như thế, điều xẩy ra cho Đức Maria cũng hàng ngày xẩy ra nơi mỗi người chúng ta, trong việc nghe Lời Chúa và trong việc cử hành các bí tích.”
Như vậy, vì có mầu nhiệm Đức Ki-tô Ngôi Lời nhập thể nên mới có mầu nhiệm Đức Mẹ Thiên Chúa. Mầu nhiệm này gắn liền với con Thiên Chúa làm người. Trong lịch sử Giáo hội, chỉ sau khi xác định chân tướng Đức Giê-su Ki-tô, vừa là Thiên Chúa thật vừa là người thật, Giáo Hội mới xác định Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Nếu Chúa Ki-tô chỉ là Thiên Chúa thôi thì không làm gì có “Mẹ Thiên Chúa”. Hay nếu Chúa Ki-tô chỉ là người thôi, cho dầu là “siêu nhân” đi nữa, thì Đức Maria càng không thể là “Mẹ Thiên Chúa”. Cho nên, ngày nay người tín hữu tuyên xưng đức tin mầu nhiệm Đức Mẹ Thiên Chúa là bởi vì mầu nhiệm ấy gắn liền với mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể, như trong kinh Tin Kính đã định tín: “Người là Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật…Người đã từ trời xuống thế bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria và đã làm người”. Chúng ta tin nhận Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa chính là vì chúng ta tin Chúa Giê-su Ki-tô là Thiên Chúa thật và là người thật: Chúa Giê-su là Thiên Chúa, Đức Maria sinh ra Chúa Giê-su, nên Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa.
Đêm Ngôi Lời giáng thế, cả trời đất mừng vui hoan hỷ, tụng ca Thánh danh Thiên Chúa, mừng đón Ngôi Hai giáng trần. Ngày trọng đại đó, toàn thể vũ trụ được chứng kiến bao thiên sứ của Thiên Chúa không ngớt lời tôn vinh: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm”. Trời đất giao hòa chào mừng kỷ nguyên mới khai sinh. Đấng Cứu độ đến giữa lòng nhân loại để thi ân giáng phúc và đem bình an cho mọi người. Vì thế, đêm Noel là đêm của vui mừng, là đêm của bình an, đêm của hồng phúc đến từ Thiên Chúa. Như vậy thì ngày tôn vinh Mẹ Thiên Chúa vì Mẹ đã làm cầu nối đem sứ giả hòa binh là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, cũng tất nhiên là ngày vị Con Trời đem bình an xuống cho nhân loại.
Thật vô cùng ý nghĩa khi Giáo Hội đặt ngày cầu nguyện cho Thế Giới Hòa Bình vào ngày Lễ Mẹ Thiên Chúa, lại đúng vào dịp đầu năm, ngày mà bất cứ một người nào – không phân biệt màu da, sắc tộc – cũng hoan chúc lẫn nhau được bình an hạnh phúc. Chính Ðức Thánh Cha Phao-lô VI đã viết trong Tông huấn Tôn kính Đức Maria “Marialis Cultus” (số 5) khi ngài dời Thánh lễ kính trọng thể Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa vào ngày 01/01 mỗi năm như sau: “Vì sự trùng hợp tốt đẹp giữa ngày 01 tháng giêng với ngày thứ tám giáp lễ Giáng Sinh mà chúng tôi đã đặt ngày đó là ngày Thế Giới Hòa Bình, mà thế giới mỗi ngày càng hưởng ứng thêm, và thành quả của hòa bình đã phát sinh trong lòng nhiều người.”
Hiểu được ý nghĩa cao vời ngày Lễ kính Đức Trinh Nữ Maria Mẹ Thiên Chúa, cũng là ngày cầu cho thế giới hòa bình, “Chúng ta, những người Ki-tô hữu tin rằng trong Giáo Hội, chúng ta là các chi thể của một thân thể duy nhất, hỗ trợ nhau, bởi vì mỗi người được trao ban một ân sủng theo tiêu chuẩn quà tặng của Đức Ki-tô, vì lợi ích chung (x. Ep 4,7.25; 1 Cr 12,7). Đức Ki-tô đã đến thế gian để mang cho chúng ta ân sủng thần linh, nghĩa là khả năng chia sẻ đời sống trong Ngài. Điều này đòi hỏi một sự thêu dệt một cơ cấu các mối tương quan huynh đệ được đánh dấu bởi mối tương quan hỗ tương, sự tha thứ và sự trao ban trọn vẹn, theo chiều sâu và chiều rộng của tình yêu Thiên Chúa được trao ban cho con người nơi Đấng Duy Nhất, đã chịu chết và sống lại, để lôi cuốn mọi người đến với Người.
Đây chính là tin vui đòi hỏi từng người chúng ta thực hiện một bước tiến nữa, thực hành liên lỉ sự cảm thông, lắng nghe những nỗi đau khổ và hy vọng của người khác, thậm chí là những ai ở xa chúng ta nhất và bước đi trên con đường tình yêu ấy, một tình yêu sẽ giúp ta biết phải trao ban thế nào và dùng chính mình cách tự do vì lợi ích của anh chị em mình. Vâng, “Chúng ta biết rằng Thiên Chúa sẽ hỏi mỗi người chúng ta rằng: “Ngươi đã làm gì em ngươi vậy?” (x. St 4,9-10). Toàn cầu hóa sự thờ ơ, vốn ngày nay đè nặng trên cuộc sống của nhiều anh chị em của chúng ta, đòi buộc chúng ta phải làm nên một sự toàn cầu hóa tình liên đới và tình huynh đệ, để có thể trao ban lại cho họ niềm hy vọng mới và giúp họ tiếp tục bước đi với sự dũng cảm qua những vấn đề của thời đại chúng ta và những chân trời mới mở ra và được Thiên Chúa đặt để vào tay chúng ta.” (Sứ điệp ngày Thế Giới Hòa Bình 2015, số 6)
Nguyện xin Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Giáo Hội và là Nữ Vương Hòa Bình, giúp chúng ta hiểu và sống mọi ngày tình huynh đệ vốn bắt nguồn từ thánh tâm chí nhân chí ái Chúa Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa và cũng là Con của Mẹ, để chúng ta có thể mang bình an đến cho mọi người trên trái đất yêu dấu này. Ôi! “Lạy Thiên Chúa toàn năng, ngày Ðức Trinh Nữ Maria sinh hạ Ðấng Cứu Thế, Chúa đã tặng ban cho nhân loại, kho tàng ơn cứu độ muôn đời. Xin cho chúng con được nhờ lời Ðức Mẹ nguyện giúp cầu thay, vì chính nhờ Ðức Mẹ chúng con mới được nhận lãnh nguồn sức sống vĩnh cửu là Ðức Giê-su Ki-tô, Con Chúa, Chúa chúng con. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ lễ Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời).
|
Suy Niệm 15 Trầm Thiên Thu
×
Tình Mẫu Tử (Lễ Mẹ Thiên Chúa) Trầm Thiên Thu
Tình Mẫu Tử luôn kỳ diệu, không ai có thể hiểu hết. Thiên Chúa đã trao cho phụ nữ một thiên chức cao cả: Làm Mẹ. Đứa con dù tật nguyền, xấu xí, tội lỗi, thậm chí là xử tệ với mình, nhưng người mẹ vẫn hết lòng vì con đến nỗi có thể xả thân mình để con được an toàn. Tất nhiên người cha cũng thế, nhưng người cha thâm trầm nên thường ít được nhắc tới. Ca dao Việt Nam ví von:
Công Cha như núi Thái Sơn
Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ Mẹ kính Cha
Cho tròn chữ Hiếu mới là đạo con
Công ơn cha mẹ khôn ví, thế nên người con cũng phải có bổn phận với song thân và hết lòng vì các ngài, vậy mới xứng đáng mang danh con người. Trong kinh Tâm Địa Quán của Phật giáo cũng có nói về công ơn cha mẹ và bổn phận con cái đối với song thân phụ mẫu:
Ân cha lành cao như núi Thái
Đức mẹ hiền sâu tợ biển khơi
Dù cho dâng trọn một đời
Cũng không trả hết ân người sanh ta
Bổn phận làm con phải biết hiếu kính với cha mẹ đã được thấm nhuần từ xa xưa của tổ tiên ông bà để lại cho ngày nay. Thiên Chúa cũng đề cao thiên chức làm cha và làm mẹ. Chính Chúa Giêsu cũng đã nêu gương hiếu thảo trong suốt cuộc đời Ngài khi làm người trên dương thế.
Nói theo quan niệm con người, nếu xét về Âm Dương tức là Trời Đất, thì người Cha là Dương và người Mẹ là Âm, giống như ngày và đêm hài hòa Âm Dương, hoặc nói cách khác, nếu không có Thiên Địa (Trời Đất) thì không thể có con người. Thật vậy, nếu không nhờ “cha sinh, mẹ dưỡng” thì chúng ta không thể hiện hữu trên cõi đời này. Còn nói về tâm linh, chính Thiên Chúa mới là Tạo Hóa, là Đấng tác tạo chúng ta: “Đức Chúa, Đấng tạo thành ngươi, Đấng cứu chuộc ngươi, Đấng nắn ra ngươi từ khi ngươi còn trong lòng mẹ” (Is 44:2 & 24).
Ngày xưa, Đức Chúa phán với ông Môsê: “Hãy nói với A-ha-ron và các con nó rằng: Khi chúc lành cho con cái Ít-ra-en, anh em hãy nói thế này: “Nguyện Đức Chúa chúc lành và gìn giữ anh em! Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh em và dủ lòng thương anh em! Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em! Chúc như thế là đặt con cái Ít-ra-en dưới quyền bảo trợ của danh Ta, và Ta, Ta sẽ chúc lành cho chúng” (Ds 6:23-27).
Đó là lời chúc bình an dành cho những người con hiếu thảo của Thiên Chúa. Người cha và người mẹ là con cái của Thiên Chúa, những người con vừa là con cái của Thiên Chúa vừa là con cái của cha mẹ phần đời. Bất cứ người con nào ngoan ngoãn và hiếu thảo đều được Thiên Chúa chúc lành.
Con người quá yếu đuối và dễ kiêu ngạo, làm gì cũng phải nhờ ơn Chúa, không có Ngài thì chúng ta chẳng làm được gì, sảy một giây thôi thì chúng ta lại sa ngã ngay, vì thế mà luôn phải cầu nguyện: “Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc, xin toả ánh tôn nhan rạng ngời trên chúng con, cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa, và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài” (Tv 67:2-3).
Tác giả Thánh vịnh mơ ước, và cũng phải là mơ ước của chúng ta: “Ước gì muôn nước reo hò mừng rỡ, vì Chúa cai trị cả hoàn cầu theo lẽ công minh, Người cai trị muôn nước theo đường chính trực và lãnh đạo muôn dân trên mặt đất này” (Tv 67:5-6). Đó cũng là một cách truyền giáo, là thể hiện lòng tín thác vào Thiên Chúa và sống đức tin Kitô giáo. Niềm vui khôn tả khi được tôn thờ và xưng tụng Thiên Chúa, nhưng niềm vui đó không chỉ dành riêng cho mình mà còn phải lan tỏa sang mọi người: “Ước gì chư dân cảm tạ Ngài, lạy Thiên Chúa, chư dân phải đồng thanh cảm tạ Ngài. Nguyện Chúa Trời ban phúc lộc cho ta! Ước chi toàn cõi đất kính sợ Người!” (Tv 67:7-8).
Thời gian đang tới hồi viên mãn, nghĩa là chúng ta đang sống trong thời cánh chung. Thánh Phaolô nói: “Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử” (Gl 4:4-5). Ngôi Hai Thiên Chúa đã mặc xác phàm, làm con một phụ nữ, ở giữa chúng ta, và cũng theo luật pháp của một đất nước như chúng ta. Thật may mắn và hạnh phúc cho chúng ta biết bao, vì Chúa Giêsu làm như vậy là coi chúng ta vừa là con cái vừa là huynh đệ.
Thật vậy, Ngài đã chứng thực chúng ta là con cái, như Thánh Phaolô giải thích: “Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: “Áp-ba, Cha ơi!” (Gl 4:6). Chúng ta chỉ là những tội nhân khốn nạn, thế mà được quyền gọi Thiên Chúa là Cha. Còn vinh dự nào hơn? Còn hạnh phúc nào bằng? Vì thế, chúng ta “không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa” (Gl 4:7). Quả thật, không còn ngôn từ nào để diễn tả hết ý nghĩa và cũng chẳng có cách nào để có thể tạ ơn Thiên Chúa một cách trọn vẹn.
Được có cha mẹ, làm con cái của người phàm mà cả đời chúng ta còn chưa đủ để đáp đền công ơn đó, huống chi đối với Thiên Chúa, Đấng không chỉ đã ban cho chúng ta cả hồn lẫn xác, mà còn nhận chúng ta là con cái và chấp nhận kiếp người để cứu độ chúng ta.
Thánh sử Luca kể vắn tắt: “Các mục đồng hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp bà Maria, ông Giuse, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ” (Lc 2:16). Đơn giản chỉ có vậy, nhưng khi họ thấy thế, họ đã tin Hài Nhi nằm trên máng cỏ kia thực sự là Con Thiên Chúa, và rồi họ liền kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này. Họ đã truyền giáo, đã sống tinh thần Phúc âm.
Mục đồng là những người chăn chiên thuê, ít học, chân chất, có sao nói vậy, không biết “buôn chuyện”, không biết “đặt điều” hoặc khoác lác. Thế nên khi nghe họ thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên. Lạ là những người này cũng tin, chắc chắn lời kể của các mục đồng kia phải toát lên sự chân thật.
Còn Đức Maria chẳng biết nói gì hơn, chỉ “ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2:19). Trái tim người mẹ luôn nhạy bén, linh tính người mẹ cũng rất chính xác, Đức Mẹ biết rõ Con Trẻ Giêsu ngày mai sẽ thế nào.
Các người chăn chiên ra về, họ quá đỗi vui mừng, đến nỗi họ “vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ” (Lc 2:20). Các mục đồng thật là được đại phúc, vì được tận mắt nhìn thấy Con Thiên Chúa, được “nựng” Chúa Hài Đồng, nhưng họ còn có phúc hơn vì họ đã thật lòng tin Em Bé Giêsu đang ngọ nguậy kia là Vương Nhi giáng sinh từ Trời, là Thiên Tử đích thực.
Khi Hài Nhi được đủ tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ cắt bì theo quốc luật Israel, Cô Maria và Chú Giuse đã đặt tên cho Hài Nhi là Giêsu, đúng tên mà sứ thần đã đặt cho Người trước khi Người được thụ thai trong lòng mẹ.
Thiên chức làm mẹ cao cả nhưng cũng đầy gian khổ, người mẹ nào cũng đã từng mắt lệ nhạt nhòa vì con mình, dù đứa con đó là trai hay gái. Trong mắt mẹ, đứa con nào cũng vẫn còn bé bỏng, đúng như thi sĩ Chế Lan Viên (Phan Ngọc Hoan, 1920-1989) đã cảm nhận về Tình Mẹ qua bài thơ “Con Cò”, với hai câu đầy ý nghĩa:
Con dù lớn vẫn là con của mẹ
Đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con
Tình Mẫu Tử thật kỳ diệu, chúng ta có đi hết cuộc đời cũng không thể đi hết những lời mẹ ru… Có mẹ và còn mẹ, thật là hạnh phúc; mất mẹ, thật là bất hạnh!
Ngày lễ Mẹ Thiên Chúa cũng là Ngày Hòa bình Thế giới. Hòa bình luôn là niềm khao khát cháy bỏng của mọi người, dù lương hay giáo: Hòa bình trong tâm hồn, hòa bình trong gia đình, hòa bình trong các mối quan hệ, hòa bình trong cộng đồng, hòa bình giữa các quốc gia, hòa bình giữa các tôn giáo,… Muốn có hòa bình thì cần tôn trọng công lý, và đó mới là niềm hạnh phúc với sự bình an đích thực.
Lạy Thiên Chúa chí minh và chí thiện, xin giúp chúng con biết thảo hiếu với cha mẹ đúng như Thánh Luật Ngài; xin nâng đỡ các bậc sinh thành trong thiên chức cao cả mà Chúa đã trao; xin ban cho chúng con nền hòa bình đích thực qua việc thể hiện công lý. Chúng con cầu xin nhân Danh Chúa Hài Đồng, Đấng Thiên Sai cứu độ chúng con. Amen.
|
Suy Niệm 16 Sưu Tầm
×
Mẹ Thiên Chúa và Mẹ tôi Sưu Tầm
Yoan Boscô, linh mục Flanagan vào thế kỷ trước, một ngày kia khi đang giảng về vinh quang của Đức Trinh Nữ, bỗng Ngài dừng lại và hỏi: Ai có thể nói cho tôi: Maria là ai ? Sau cùng có người trả lời: Maria là mẹ Thiên Chúa.
Đúng, Yoan Boscô hô lên: “Maria là Mẹ Thiên Chúa”. Nhưng tôi muốn biết Người là ai ? Rồi vài câu trả lời khác nhau: “Maria là Nữ Vương Thiên đàng, là cửa Thiên đàng.. là sức khỏe của người bệnh tật, ... là nơi nương tựa của kẻ tội lỗi... Yoan Boscô mỉm cười nói: đúng lắm, Maria đúng như vậy. Nhưng hơn thế nữa, Maria là Mẹ tôi. Vâng, Mẹ chúng ta. Trên thế gian, không ai khác thân thương bằng người mẹ này, không có ai yêu chúng ta, không có ai sẵn lòng ban ơn cho chúng ta, thương chúng ta bằng. Trên Thiên đang cũng chẳng có vị thánh nào yêu chúng ta, sẵn sàng lắng nghe chúng ta và thông cảm với chúng ta như Đức Mẹ.
Hôm nay, chúng ta mừng lễ Maria là Mẹ Thiên Chúa. Chúng ta biết rằng Maria là Mẹ Chúa Giêsu. Chúng ta cũng tin rằng: đức Giêsu vừa là người, vừa là Thiên Chúa. Bởi vì Maria là Mẹ của đức Giêsu toàn diện, nên đúng thực được gọi là Mẹ của Thiên Chúa làm người. Không ai nói được là Maria đã sinh ra thiên tính của Chúa Giêsu. Cũng chẳng ai tin rằng: Maria là Chúa hay một bà Chúa. Chúng ta chỉ đơn giản tuyên xưng rằng Maria là Mẹ của đức Giêsu vừa là Chúa, vừa là người...
Vì Maria là Mẹ của Thiên Chúa làm người, nên cũng là Mẹ của Giáo hội, gia đình của Thiên Chúa. Chúa Giêsu là trưởng gia đình thì Mẹ Người là mẹ chúng ta.
Phải làm gì đây để khởi đầu một năm mới ?
Không có Mẹ, không có sự sống của con người. Ngay Chúa Giêsu cũng phải có Mẹ, nếu cuộc sống mỗi người khởi đầu từ Mẹ, thì mỗi chặng đường của đời sống, một năm mới chẳng hạn, cũng khởi đầu với người mẹ – Mẹ Thiên Chúa.
Người Mẹ đón nhận con mình mỗi buổi sáng, Maria đón nhận chúng ta ngày đầu năm. Người nghiêng mình trên chúng ta, chăm sóc chúng ta mọi cách để nuôi dưỡng, bao bọc, chữa lành và cho chúng ta vô số những biểu lộ êm ái của tình thương một chỉ có một người mẹ mói có thể làm được. Người mẹ làm cho ngày mới có ý nghĩa cho đứa con. Maria làm cho năm mới có ý nghĩa cho tất cả chúng ta.
Suy niệm lời nguyện sau hiệp lễ: Lạy Cha, khi chúng con tung hô Trinh Nữ Maria là Mẹ Chúa Giêsu và Mẹ của Giáo hội. Xin cho việc rước lấy con của Người đem lại cho chúng con ơn cứu rỗi.
Suy niệm phần hai của kinh Kính Mừng: “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội...”. Xin Mẹ cầu bầu cho chúng ta lúc này, ngày đầu năm và suốt cả năm nay. Để năn nay chúng ta sống gần Chúa Giêsu và Mẹ Người, Mẹ chúng ta. Như thế năm (1991) sẽ là năm hạnh phúc.
Đó là lời cầu nguyện của tôi, lời chúc của tôi cho tất cả các bạn: năm mới hạnh phúc.
|
Suy Niệm 17 dongcong.net
×
Mẹ là Hiền Mẫu của chúng ta dongcong.net
Kết thúc tuần bát nhật sau lễ Giáng Sinh là đại lễ kính Mẹ Thiên Chúa. Mặc dù Đức Maria đã được tôn kính là Mẹ Thiên Chúa ngay từ những thời kỳ đầu của Giáo Hội, nhưng mãi đến thế kỷ IV, đại lễ này mới được thiết lập, khi chân lý đức tin này được công đồng Ephesus tuyên tín. Năm 1931, Đức Pius XI ấn định mừng lễ Mẹ Thiên Chúa vào ngày 11 tháng 10. Về sau, Đức Phaolô VI dời lễ này vào ngày đầu năm dương lịch. Lời nguyện sau hiệp lễ được lấy từ phụng vụ thế kỷ VII. Lời nguyện này nổi tiếng vì đã xưng tụng Đức Maria là Mẹ Giáo Hội. Đó là chứng cứ xuất hiện sớm nhất trong phụng vụ của Giáo Hội về tước hiệu này.
Khi tuyên xưng Đức Trinh Nữ là Mẹ Thiên Chúa, chúng ta cũng tôn vinh Mẹ là Hiền Mẫu của chúng ta. Chúng ta biết Mẹ hết lòng ân cần chăm sóc cho con cái, nhất là những người con cùng quẫn nhất của Mẹ.
Thiên Chúa tuyển chọn và ban cho Đức Maria muôn vàn ân sủng.
Trong bài đọc Hai hôm nay, chúng ta được biết, Khi thời gian viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con Người đến, sinh bởi một người nữ…,
Trước đây vài ngày, chúng ta đã cầu nguyện, kính nhớ cuộc giáng sinh đơn hèn của Chúa Kitô trong hang đá Bêlem. Chúng ta thấy Người như một con trẻ, một hài nhi yếu ớt trong lòng Mẹ. Mẹ ban Chúa Hài Nhi cho chúng ta tôn thờ, vì Người là Đấng Cứu Chuộc và là Thiên Chúa của chúng ta. Thiên Chúa Cha đã an bài những hoàn cảnh chung quanh cuộc giáng sinh của Con Người: sắc chỉ kiểm tra dân số của hoàng đế Caesar Augustus, cảnh nghèo hèn của hang đá Bêlem… Nhưng trước hết, Thiên Chúa đã nghĩ đến một Người Mẹ cho Con Người giáng thế. Người Nữ này nhiều lần đã được đề cập đến trong Thánh Kinh và đã được tiền định từ muôn đời. Thiên Chúa đã tạo dựng Người Nữ này với một lòng yêu thương đặc biệt hơn mọi thụ tạo, bởi vì Người Nữ này sẽ tự tình chấp nhận làm Mẹ của Con Người. Trong Sáng Thế Ký, Thiên Chúa tuyên bố Người sẽ đặt một mối thù giữa con rắn và Người Nữ. Thiên Chúa cũng phán với ngôn sứ Ahaz trong sách ngôn sứ Isaia, Này đây một Người Nữ sẽ thụ thai và sinh một con trai, và sẽ gọi tên là Emmanuel.
Đức Maria đã được tiên trưng qua hình ảnh hòm bia giao ước, là đền vàng, là tháp ngà. Thiên Chúa đã tuyển chọn Mẹ giữa mọi phụ nữ trước lúc bình minh của thời gian. Người yêu thương Mẹ hơn tất cả vũ trụ thụ tạo. Người yêu thương Mẹ bằng một tình yêu khôn lường, trào đổ trên Mẹ muôn vàn phúc lộc và ân sủng, vượt hơn tất cả các thiên thần và các thánh hợp lại. Thiên Chúa đã giữ gìn Mẹ khỏi mọi tì ố tội lỗi và bất toàn. Như vậy, không tạo vật nào có thể xinh đẹp và thánh thiện hơn Mẹ.Vì thế, các thần học gia và các thánh đã dạy rằng, Thiên Chúa có thể tạo dựng một thế giới tốt đẹp hơn, nhưng không thể tạo dựng một người mẹ tốt hảo hơn Hiền Mẫu của Người được. Thánh Bernard kêu lên, Tại sao chúng ta lại ngạc nhiên khi Thiên Chúa - Đấng có thể thực hiện bao điều kỳ diệu trong Thánh Kinh và qua các thánh nhân của Người – lại muốn tỏ mình ra một cách lạ lùng dường ấy qua Mẹ của Người?
Thánh Thomas Aquinas dạy, thiên chức Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria siêu vượt trên mọi ân sủng và đoàn sủng như ơn nói tiên tri, ơn ngôn ngữ, ơn làm phép lạ…
Thiên Chúa toàn năng và vô cùng khôn ngoan đã tuyển chọn cho mình một Người Mẹ. Bạn sẽ làm gì nếu như cũng được tuyển chọn một người mẹ cho mình? Tôi nghĩ có lẽ bạn và tôi sẽ chọn một người mẹ đầy mọi ân sủng. Đó là điều Thiên Chúa đã thực hiện: bởi thế, Đức Maria chỉ kém một mình Thiên Chúa Ba Ngôi. Các nhà thần học đã đưa ra một giải thích chí lý về đặc ân đầy ân sủng của Mẹ, và Mẹ không thể nào lại phải khuất lụy sự dữ: điều hợp lý là phải như thế, Thiên Chúa có thể thực hiện được điều ấy, và vì vậy Người đã thực hiện. Đó là chứng cứ vững chắc: chứng cứ hiển nhiên nhất là Thiên Chúa đã ban cho Mẹ Người mọi đặc ân, ngay từ giây phút đầu tiên. Vì vậy, Mẹ Maria là Đấng toàn mỹ, thanh khiết, vẹn tuyền nơi thân xác và linh hồn!
Hôm nay, nhìn lên Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, chúng ta thấy Mẹ bồng ẵm Chúa. Mẹ ban Con Mẹ cho chúng ta. Chúng ta phải cám tạ Thiên Chúa, vì ngoài việc tạo thành và cứu chuộc, thì chắc chắn đây là một trong những ơn lớn lao nhất mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta, tức là đã ưu tuyển một Người Mẹ, Đấng trở thành Hiền Mẫu của chúng ta.9
Đức Maria với Thiên Chúa Ba Ngôi.
Thánh Thomas Aquinas dạy rằng, ngoài Thiên Chúa Cha, chỉ có Đức Maria là Đấng duy nhất cho thể nói cùng Chúa Con: Đây là Con Ta. Theo thánh Bernard, Đức Mẹ xưng hô với Thiên Chúa toàn năng - Chúa các thiên thần - là Con của Mẹ, khi Mẹ hỏi Người một cách hết sức đơn sơ: ‘Hỡi Con, tại sao Con lại xử với chúng ta như thế?’ Hỏi thử có thiên thần nào dám thốt lên một lời như thế hay không?… Nhưng Đức Maria, hoàn toàn ý thức về thiên chức Thần Mẫu của mình, đã không ngần ngại gọi Thiên Chúa trời đất là ‘Con’ của Mẹ. Thiên Chúa không bị xúc phạm trước lời gọi ấy, vì chính Người đã muốn như vậy. Người thực sự là Con của Mẹ Maria.
Mỗi khi tìm hiểu về bản tính Chúa Kitô, chúng ta phải cẩn thận phân biệt giữa cuộc nhiệm sinh từ đời đời (Thần Tính, Ngôi Lời hằng hữu) và cuộc giáng sinh trong thời gian của Người. Là Thiên Chúa, Ngôi Con được sinh ra mà không phải tạo thành từ Chúa Cha từ trước muôn đời. Là con người, Người được sinh ra và đã làm người, nhờ Đức Trinh Nữ Maria. Khi thời gian viên mãn, Ngôi Hai trong Ba Ngôi Thiên Chúa, Đấng đã được Thiên Chúa xức dầu, đã mặc lấy xác thể loài người. Có thể nói, Người đã mặc một linh hồn và một thân xác được tạo dựng trong cung lòng Mẹ Đồng Trinh. Nhân Tính (hồn và xác) và Thần Tính hợp nhất trong Ngôi Lời. Ngay từ giây phút tự tình thưa lời xin vâng trước thánh ý Thiên Chúa, Đức Maria đã trở thành Mẹ của Ngôi Lời Nhập Thể. Tương tự như mọi bà mẹ, từ lòng mình, họ chỉ sinh một thân xác, chứ không phải linh hồn. Chúng ta có lý khi nhìn nhận những phụ nữ này là những bà mẹ. Chúng ta cũng hãy coi Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa như vậy, vì sự kiện ngôi hiệp của Con Mẹ.
Từ trời cao, các thiên thần và các thánh kính sợ chiêm ngắm vinh quang cao cả của Đức Maria. Các ngài quá biết uy quyền của Mẹ, vì Mẹ đã, và mãi mãi đến đời đời vẫn là Mẹ Thiên Chúa, Mater Creatoris, Mater Salvatoris (Mẹ Đấng Tạo Thành, Mẹ Đấng Cứu Độ).
Vì thế, trong kinh cầu Đức Bà, tước hiệu vinh quang này được chúc tụng đầu tiên, Sancta Dei Genitrix (Đức Mẹ Chúa Trời); nối tiếp sau đó là các tước hiệu khác, xứng hợp với chức phẩm Mẹ Thiên Chúa: Đức Nữ Đồng Trinh trên hết các kẻ đồng trinh, Đức Mẹ mọi ân sủng, Đức Mẹ cực thanh, cực tịnh…
Vì là Mẹ của Con Thiên Chúa, nên Đức Maria có một tương quan cá biệt với Thiên Chúa Ba Ngôi Cực Thánh. Mẹ là Nữ Tử của Chúa Cha, như lời các giáo phụ và huấn quyền Giáo Hội vẫn xưng tụng.
Đức Trinh Nữ có liên hệ máu mủ với Chúa Con, mối liên đới đem lại cho Mẹ quyền cai quản Chúa Giêsu… Chúa Giêsu cũng có những bổn phận với Mẹ theo lẽ công bình mà mọi người con đều mắc với cha mẹ họ.
Với Chúa Thánh Thần, Đức Maria là Đền Thờ và là Nhà Tạm của Người, theo như lời giáo huấn của các giáo phụ, và mới đây là của Đức Gioan Phaolô II.
Đức Maria là Kỳ Công kiệt tác của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Kỳ Công kiệt tác này không phải là một người xa lạ với đời sống các tín hữu. Thiên Chúa không ban nhiều đặc ân cho một người nào đó chỉ để làm chúng ta ngỡ ngàng. Kỳ Công kiệt tác này của Thiên Chúa Ba Ngôi là Hiền Mẫu Đấng Cứu Thế, đồng thời cũng là Mẹ chúng ta – Người Mẹ của một người con khốn nạn là tôi đây, nhưng trên phương diện này, tôi không thua kém bất kỳ ai khác.
Mẹ Maria là Mẹ của tôi!
Hôm nay, chúng ta hướng lên Mẹ Maria trong niềm vui mừng và tán dương, một niềm tự hào thánh thiện. Ai cũng thích thú khi ta nhắc đến mối liên hệ giữa họ với những nhân vật lẫy lừng trong các lãnh vực văn chương, chính trị, quân sự, hoặc trong Giáo Hội! Bạn hãy ca tụng Mẹ Maria Vô Nhiễm, hãy nhắc cho Mẹ rằng: kính mừng Maria, Nữ Tử của Thiên Chúa Cha! Kính mừng Maria, Hiền Mẫu của Thiên Chúa Con! Kính mừng Maria, Hiền Thê của Thiên Chúa Thánh Thần! Không ai cao cả hơn Mẹ ngoài một mình Thiên Chúa!19
Từ Mẫu của chúng ta.
Salve, Mater misericordiae, Mater spei et Mater veniae… Chào kính Mẹ thương xót, Mẹ niềm cậy trông và tha thứ, Mẹ Thiên Chúa và Mẹ ân sủng, Mẹ tràn đầy niềm vui thánh thiện.
Chúng ta thân thưa với Mẹ bằng những lời thánh thi truyền thống như thế. Với tình ân cần từ mẫu, Mẹ hằng dâng lên Con Mẹ những lễ dâng của Dân Chúa còn trên dương thế. Mẹ cư xử với chúng ta như một người mẹ. Mẹ nhìn thấy Chúa Giêsu nơi mỗi tín hữu, nơi mỗi con người. Là Đấng Đồng Cứu Chuộc, Mẹ hết lòng khát khao cho chúng ta được trọn vẹn hợp nhất với sự sống thần linh. Mẹ luôn sẵn sàng giúp đáp chúng ta trong mọi khốn khó và thử thách xảy đến. Mẹ luôn đứng về bên chúng ta trong công việc tông đồ mà chúng ta phải thực thi giữa trần thế. Hãy kêu cầu Đức Trinh Nữ. Hãy cứ xin Mẹ tỏ ra là một Hiền Mẫu đối với bạn – ‘monstra te esse Matrem!’ Khi trào đổ nguồn ơn thánh từ nơi Con Mẹ, nguyện xin Mẹ cũng làm cho giáo lý lành mạnh trở nên sáng sủa cho tâm trí bạn, tình yêu và sự thanh khiết cho trái tim bạn, để bạn biết đường mà đến với Chúa và đưa nhiều linh hồn đến cho Người.
Lời kinh từ phụng vụ - monstra te esse Matrem! xin Mẹ tỏ ra là một Hiền Mẫu - có thể giúp chúng ta sống kết hợp với Mẹ trong ngày đại lễ hôm nay.
Mẹ của con ơi! Xin tỏ cho con biết Mẹ là Hiền Mẫu của con! Xin phù giúp con trong lúc cần thiết này, trong nhu cầu này…, xin Mẹ trợ giúp người con cần sống thân mật với Con của Mẹ đây.
Bắt đầu một năm mới, chúng ta hãy tận dụng giờ phút này để quyết tâm mạnh mẽ đến nương nhờ Mẹ mỗi ngày một hơn. Chúng ta sẽ không bao giờ tìm được một người bạn nào đáng tin hơn. Chúng ta hãy noi gương thánh Gioan, trên núi Canvê, ngài đã thay mặt toàn thể nhân loại tiếp nhận Mẹ: Từ giờ đó, môn đệ đưa Mẹ về nhà mình.
Chúng ta phải sống với Mẹ trọn tình hiếu kính, hết niềm tinh tế! Đây phải cách chúng ta hãy sống với Mẹ, trong năm mới này cũng như mãi mãi.
|
Suy Niệm 18 Lm. Minh Vận, CRM
×
Mẹ Đấng Tối Cao Lm. Minh Vận, CRM
Hôm nay, chúng ta cùng với toàn thể Giáo Hội dâng lễ trọng kính thờ Mầu Nhiệm Chúa Nhập Thể làm người, trong lòng Đức Trinh Nữ Maria Mẹ Chúa. Truyền tin là một biến cố lịch sử vô cùng quan trọng, giao hòa giữa trần thế và Thiên Quốc, giữa loài người thấp hèn tội lỗi và Thiên Chúa cao cả thánh thiện, giữa tội nhân với Đấng bị xúc phạm. Đó là giây phút khởi điểm Chương Trình Cứu Độ đầy tình thương xót của Thiên Chúa đối với nhân loại chúng ta.
I. CHÚA KITÔ LÀ THIÊN CHÚA CHÂN THẬT
Tìm hiểu lịch sử Giáo Hội, chúng ta thấy có những bè rối chủ trương lạc thuyết chối niềm tin vào thiên tính nơi Đức Kitô, họ chỉ coi Ngài như một vị tiên tri và là con người thuần túy như bất cứ ai trong chúng ta. Cũng có bè rối khác tin Chúa Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa xuống trần gian làm Đấng Cứu Thế, nhưng chỉ là con người ảo ảnh không phải người thật, hay chỉ xuống ngự trong lòng Đức Trinh Nữ giống như Người ngự trong một cái nôi. Vì thế, họ kết luận, cùng lắm Đức Maria cũng chỉ là Mẹ cái xác của Chúa Giêsu chứ không phải là Mẹ thật của Thiên Chúa. Nếu chỉ lý luận như thế, thì người ta đã hủy bỏ tất cả nền tảng của Đức Tin Công Giáo. Họ đã đương nhiên không tin Chúa Kitô là Thiên Chúa thật, chối bỏ Ơn Cứu Độ, chối bỏ Phẩm Chức Mẹ Thiên Chúa của Đức Trinh Nữ Maria, chối bỏ các Mầu Nhiệm, các Tín Điều và chối Giáo Hội Chúa Kitô đã lập... Tất cả nền tảng Đức Tin đều bị sụp đổ.
Nhưng Đức Tin Công Giáo dựa trên nền tảng kho tàng mạc khải vô cùng vững mạnh của chính Thiên Chúa nơi Thánh Kinh, Thánh Truyền và Giáo Huấn của Giáo Hội trải qua các thời đại muôn đời vẫn tồi tại. Kho tàng mạc khải đó dựa trên thế giá của Thiên Chúa là Đấng cao cả, khôn ngoan, thượng trí và chân thật vô cùng, Ngài không bao giờ lừa dối ai và cũng không ai có thể lừa dối được Ngài.
Do Đức Tin thánh hảo đó, Giáo Hội Công Giáo chúng ta tin: Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa và là Người thật, đã nhập thể trong lòng Đức Trinh Nữ Maria Mẹ Người, được quyền năng Thánh Linh tác thành do chính bửu huyết Đức Trinh Nữ Maria, để làm Đức Kitô, Đấng Cứu Chuộc chúng ta. Nơi Đức Kitô có hai bản tính: Bản tính nhân loại và bản tính Thiên Chúa, nhưng chỉ có một Ngôi Vị duy nhất là Ngôi Hai Thiên Chúa cao cả. Chính niềm tin đó dạy cho chúng ta tin thật rằng: Dù Đức Trinh Nữ Maria chỉ sinh ra Đức Giêsu theo nhân tính, nhưng nhân tính đó kết hợp nên một với thiên tính của Ngôi Hai làm nên Đấng Cứu Thế. Nhân tính và thiên tính kết hợp nên một trong một ngôi vị duy nhất trong Chúa Giêsu Ngôi Hai Thiên Chúa, không thể phân rẽ được. Như vậy, Đức Trinh Nữ là Mẹ sinh ra Chúa Giêsu, mà Chúa Giêsu là Thiên Chúa thì tất nhiên Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa. Cũng như mẹ chúng ta chỉ cưu mang và sinh ra thân xác chúng ta, chứ linh hồn chúng ta được Thiên Chúa tạo dựng trực tiếp, không sinh ra linh hồn chúng ta; mà linh hồn và thân xác kết hợp làm nên một ngôi vị là con người chúng ta; vậy người người sinh ra chúng ta, chúng ta gọi ngài là mẹ.
II. HAI MẦU NHIỆM CAO CẢ
Hôm nay, chúng ta tôn kính hai mầu nhiệm cao cả: Ngôi Hai Thiên Chúa làm Người, trở nên giống như một thụ tạo, Thiên Chúa cao cả vô cùng đã tự hạ xuống mặc thân phận tôi đòi; thông phần bản tính con người yếu hèn, sống kiếp sống phàm nhân giống hệt như chúng ta, chỉ vì yêu thương chúng ta. Đồng thời, chúng ta tôn kính mầu nhiệm cao cả, Thiên Chúa đã trở nên Con của một thụ tạo do chính Người đã tạo dựng và làm cho một thụ tạo đó trở nên Mẹ Thiên Chúa. Ngôi Hai Thiên Chúa đã sung sướng làm Con Mẹ, như một Người Con ngoan thảo hoàn toàn đúng nghĩa một Người Con. Ôi Mầu Nhiệm cao cả đáng cung kính tôn sùng!
Khi tôn kính hai Mầu Nhiệm cao cả này, chúng ta xin Chúa cho chúng ta được mặc lấy, được thấm nhuần, được đồng hóa nên một trong Đức Khiêm Nhu vô cùng của Chúa, luôn chân nhận thân phận hư vô tội lỗi, thấp hèn của mình trước tôn nhan Chúa và trước mặt mọi người, luôn xác tín tất cả mọi sự mình có đây là do ơn Chúa ban nhưng không, tất cả đều thuộc quyền Chúa. Do đó, mọi danh dự vinh quang đều phải qui hướng về một mình Chúa, không bao giờ tự kiêu tự đại vì bất cứ lý do gì, nhưng luôn tự nhận mình là tôi tớ vô ích, hư vô và tội lỗi.
III. TRỞ NÊN GIÊSU CỦA MẸ MARIA
Chúa đã kêu gọi và tuyển chọn chúng ta làm con cái Chúa, thánh hiến cuộc đời cho Chúa qua Bí Tích Thánh Tẩy, là để chúng ta phụng sự và yêu mến Ngài, với mục đích đạt tới cứu cánh của Ơn Tuyển Chọn cao cả này, là trở nên giống Chúa Giêsu trong sự thánh thiện; hay nói cách khác, là được biến hóa nên Chúa Giêsu Con Mẹ Maria.
Là một Giêsu Con Mẹ Maria, chúng ta hãy tận hiến cho Mẹ, hãy sống theo Tinh Thần Tận Hiến, tin tưởng, phó thác mọi sự nơi Mẹ, luôn sống lệ thuộc vào Mẹ, luôn yêu mến, tôn kính, vâng phục Mẹ bằng chính tâm tình người con ngoan thảo của Chúa Giêsu, Con Cưng Yêu của Mẹ. Chúa muốn chúng ta tái diễn lòng hiếu thảo của Chúa đối với Mẹ, để Mẹ được luôn hài lòng và dễ dàng biến đổi chúng ta mỗi ngày nên gương Chúa Giêsu hơn, như chính mục đích Chúa đã tuyển chọn chúng ta.
KẾT LUẬN
Kitô hóa là trở nên Chúa Giêsu Kitô con Mẹ Maria, trở nên Chúa Giêsu Kitô con Mẹ Maria là chính mục đích của Ơn Gọi làm con cái Chúa; vì như thánh lệnh Chúa đã truyền trong sách Đệ Nhị Luật: "Các con hãy nên Thánh vì Ta là Thánh" (Lv 11:45). Khi xuất thân rao giảng Tin Mừng, chính Chúa Kitô cũng đã long trọng nhắc lại thánh lệnh quan trọng này và nêu cho chúng ta một mẫu gương cho chúng ta họa theo khi truyền dạy: "Các con hãy nên Thánh như Cha các con trên trời là Đấng Thánh Thiện" (Mt 5:48). Qua Công Đồng Vaticanô II, Giáo Hội cũng đã xác quyết: "Mọi Tín Hữu đều được kêu gọi và buộc phải nên thánh thiện theo bậc sống của mình" (Lumen Gentium # 42)
|
Suy Niệm 19 dongcong.net
×
Mẹ là Hiền Mẫu của chúng ta dongcong.net
Kết thúc tuần bát nhật sau lễ Giáng Sinh là đại lễ kính Mẹ Thiên Chúa. Mặc dù Đức Maria đã được tôn kính là Mẹ Thiên Chúa ngay từ những thời kỳ đầu của Giáo Hội, nhưng mãi đến thế kỷ IV, đại lễ này mới được thiết lập, khi chân lý đức tin này được công đồng Ephesus tuyên tín. Năm 1931, Đức Pius XI ấn định mừng lễ Mẹ Thiên Chúa vào ngày 11 tháng 10. Về sau, Đức Phaolô VI dời lễ này vào ngày đầu năm dương lịch. Lời nguyện sau hiệp lễ được lấy từ phụng vụ thế kỷ VII. Lời nguyện này nổi tiếng vì đã xưng tụng Đức Maria là Mẹ Giáo Hội. Đó là chứng cứ xuất hiện sớm nhất trong phụng vụ của Giáo Hội về tước hiệu này.
Khi tuyên xưng Đức Trinh Nữ là Mẹ Thiên Chúa, chúng ta cũng tôn vinh Mẹ là Hiền Mẫu của chúng ta. Chúng ta biết Mẹ hết lòng ân cần chăm sóc cho con cái, nhất là những người con cùng quẫn nhất của Mẹ.
Thiên Chúa tuyển chọn và ban cho Đức Maria muôn vàn ân sủng.
Trong bài đọc Hai hôm nay, chúng ta được biết, Khi thời gian viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con Người đến, sinh bởi một người nữ…,
Trước đây vài ngày, chúng ta đã cầu nguyện, kính nhớ cuộc giáng sinh đơn hèn của Chúa Kitô trong hang đá Bêlem. Chúng ta thấy Người như một con trẻ, một hài nhi yếu ớt trong lòng Mẹ. Mẹ ban Chúa Hài Nhi cho chúng ta tôn thờ, vì Người là Đấng Cứu Chuộc và là Thiên Chúa của chúng ta. Thiên Chúa Cha đã an bài những hoàn cảnh chung quanh cuộc giáng sinh của Con Người: sắc chỉ kiểm tra dân số của hoàng đế Caesar Augustus, cảnh nghèo hèn của hang đá Bêlem… Nhưng trước hết, Thiên Chúa đã nghĩ đến một Người Mẹ cho Con Người giáng thế. Người Nữ này nhiều lần đã được đề cập đến trong Thánh Kinh và đã được tiền định từ muôn đời. Thiên Chúa đã tạo dựng Người Nữ này với một lòng yêu thương đặc biệt hơn mọi thụ tạo, bởi vì Người Nữ này sẽ tự tình chấp nhận làm Mẹ của Con Người. Trong Sáng Thế Ký, Thiên Chúa tuyên bố Người sẽ đặt một mối thù giữa con rắn và Người Nữ. Thiên Chúa cũng phán với ngôn sứ Ahaz trong sách ngôn sứ Isaia, Này đây một Người Nữ sẽ thụ thai và sinh một con trai, và sẽ gọi tên là Emmanuel.
Đức Maria đã được tiên trưng qua hình ảnh hòm bia giao ước, là đền vàng, là tháp ngà. Thiên Chúa đã tuyển chọn Mẹ giữa mọi phụ nữ trước lúc bình minh của thời gian. Người yêu thương Mẹ hơn tất cả vũ trụ thụ tạo. Người yêu thương Mẹ bằng một tình yêu khôn lường, trào đổ trên Mẹ muôn vàn phúc lộc và ân sủng, vượt hơn tất cả các thiên thần và các thánh hợp lại. Thiên Chúa đã giữ gìn Mẹ khỏi mọi tì ố tội lỗi và bất toàn. Như vậy, không tạo vật nào có thể xinh đẹp và thánh thiện hơn Mẹ.Vì thế, các thần học gia và các thánh đã dạy rằng, Thiên Chúa có thể tạo dựng một thế giới tốt đẹp hơn, nhưng không thể tạo dựng một người mẹ tốt hảo hơn Hiền Mẫu của Người được. Thánh Bernard kêu lên, Tại sao chúng ta lại ngạc nhiên khi Thiên Chúa - Đấng có thể thực hiện bao điều kỳ diệu trong Thánh Kinh và qua các thánh nhân của Người – lại muốn tỏ mình ra một cách lạ lùng dường ấy qua Mẹ của Người?
Thánh Thomas Aquinas dạy, thiên chức Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria siêu vượt trên mọi ân sủng và đoàn sủng như ơn nói tiên tri, ơn ngôn ngữ, ơn làm phép lạ…
Thiên Chúa toàn năng và vô cùng khôn ngoan đã tuyển chọn cho mình một Người Mẹ. Bạn sẽ làm gì nếu như cũng được tuyển chọn một người mẹ cho mình? Tôi nghĩ có lẽ bạn và tôi sẽ chọn một người mẹ đầy mọi ân sủng. Đó là điều Thiên Chúa đã thực hiện: bởi thế, Đức Maria chỉ kém một mình Thiên Chúa Ba Ngôi. Các nhà thần học đã đưa ra một giải thích chí lý về đặc ân đầy ân sủng của Mẹ, và Mẹ không thể nào lại phải khuất lụy sự dữ: điều hợp lý là phải như thế, Thiên Chúa có thể thực hiện được điều ấy, và vì vậy Người đã thực hiện. Đó là chứng cứ vững chắc: chứng cứ hiển nhiên nhất là Thiên Chúa đã ban cho Mẹ Người mọi đặc ân, ngay từ giây phút đầu tiên. Vì vậy, Mẹ Maria là Đấng toàn mỹ, thanh khiết, vẹn tuyền nơi thân xác và linh hồn!
Hôm nay, nhìn lên Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, chúng ta thấy Mẹ bồng ẵm Chúa. Mẹ ban Con Mẹ cho chúng ta. Chúng ta phải cám tạ Thiên Chúa, vì ngoài việc tạo thành và cứu chuộc, thì chắc chắn đây là một trong những ơn lớn lao nhất mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta, tức là đã ưu tuyển một Người Mẹ, Đấng trở thành Hiền Mẫu của chúng ta.9
Đức Maria với Thiên Chúa Ba Ngôi.
Thánh Thomas Aquinas dạy rằng, ngoài Thiên Chúa Cha, chỉ có Đức Maria là Đấng duy nhất cho thể nói cùng Chúa Con: Đây là Con Ta. Theo thánh Bernard, Đức Mẹ xưng hô với Thiên Chúa toàn năng - Chúa các thiên thần - là Con của Mẹ, khi Mẹ hỏi Người một cách hết sức đơn sơ: ‘Hỡi Con, tại sao Con lại xử với chúng ta như thế?’ Hỏi thử có thiên thần nào dám thốt lên một lời như thế hay không?… Nhưng Đức Maria, hoàn toàn ý thức về thiên chức Thần Mẫu của mình, đã không ngần ngại gọi Thiên Chúa trời đất là ‘Con’ của Mẹ. Thiên Chúa không bị xúc phạm trước lời gọi ấy, vì chính Người đã muốn như vậy. Người thực sự là Con của Mẹ Maria.
Mỗi khi tìm hiểu về bản tính Chúa Kitô, chúng ta phải cẩn thận phân biệt giữa cuộc nhiệm sinh từ đời đời (Thần Tính, Ngôi Lời hằng hữu) và cuộc giáng sinh trong thời gian của Người. Là Thiên Chúa, Ngôi Con được sinh ra mà không phải tạo thành từ Chúa Cha từ trước muôn đời. Là con người, Người được sinh ra và đã làm người, nhờ Đức Trinh Nữ Maria. Khi thời gian viên mãn, Ngôi Hai trong Ba Ngôi Thiên Chúa, Đấng đã được Thiên Chúa xức dầu, đã mặc lấy xác thể loài người. Có thể nói, Người đã mặc một linh hồn và một thân xác được tạo dựng trong cung lòng Mẹ Đồng Trinh. Nhân Tính (hồn và xác) và Thần Tính hợp nhất trong Ngôi Lời. Ngay từ giây phút tự tình thưa lời xin vâng trước thánh ý Thiên Chúa, Đức Maria đã trở thành Mẹ của Ngôi Lời Nhập Thể. Tương tự như mọi bà mẹ, từ lòng mình, họ chỉ sinh một thân xác, chứ không phải linh hồn. Chúng ta có lý khi nhìn nhận những phụ nữ này là những bà mẹ. Chúng ta cũng hãy coi Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa như vậy, vì sự kiện ngôi hiệp của Con Mẹ.
Từ trời cao, các thiên thần và các thánh kính sợ chiêm ngắm vinh quang cao cả của Đức Maria. Các ngài quá biết uy quyền của Mẹ, vì Mẹ đã, và mãi mãi đến đời đời vẫn là Mẹ Thiên Chúa, Mater Creatoris, Mater Salvatoris (Mẹ Đấng Tạo Thành, Mẹ Đấng Cứu Độ).
Vì thế, trong kinh cầu Đức Bà, tước hiệu vinh quang này được chúc tụng đầu tiên, Sancta Dei Genitrix (Đức Mẹ Chúa Trời); nối tiếp sau đó là các tước hiệu khác, xứng hợp với chức phẩm Mẹ Thiên Chúa: Đức Nữ Đồng Trinh trên hết các kẻ đồng trinh, Đức Mẹ mọi ân sủng, Đức Mẹ cực thanh, cực tịnh…
Vì là Mẹ của Con Thiên Chúa, nên Đức Maria có một tương quan cá biệt với Thiên Chúa Ba Ngôi Cực Thánh. Mẹ là Nữ Tử của Chúa Cha, như lời các giáo phụ và huấn quyền Giáo Hội vẫn xưng tụng.
Đức Trinh Nữ có liên hệ máu mủ với Chúa Con, mối liên đới đem lại cho Mẹ quyền cai quản Chúa Giêsu… Chúa Giêsu cũng có những bổn phận với Mẹ theo lẽ công bình mà mọi người con đều mắc với cha mẹ họ.
Với Chúa Thánh Thần, Đức Maria là Đền Thờ và là Nhà Tạm của Người, theo như lời giáo huấn của các giáo phụ, và mới đây là của Đức Gioan Phaolô II.
Đức Maria là Kỳ Công kiệt tác của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Kỳ Công kiệt tác này không phải là một người xa lạ với đời sống các tín hữu. Thiên Chúa không ban nhiều đặc ân cho một người nào đó chỉ để làm chúng ta ngỡ ngàng. Kỳ Công kiệt tác này của Thiên Chúa Ba Ngôi là Hiền Mẫu Đấng Cứu Thế, đồng thời cũng là Mẹ chúng ta – Người Mẹ của một người con khốn nạn là tôi đây, nhưng trên phương diện này, tôi không thua kém bất kỳ ai khác.
Mẹ Maria là Mẹ của tôi!
Hôm nay, chúng ta hướng lên Mẹ Maria trong niềm vui mừng và tán dương, một niềm tự hào thánh thiện. Ai cũng thích thú khi ta nhắc đến mối liên hệ giữa họ với những nhân vật lẫy lừng trong các lãnh vực văn chương, chính trị, quân sự, hoặc trong Giáo Hội! Bạn hãy ca tụng Mẹ Maria Vô Nhiễm, hãy nhắc cho Mẹ rằng: kính mừng Maria, Nữ Tử của Thiên Chúa Cha! Kính mừng Maria, Hiền Mẫu của Thiên Chúa Con! Kính mừng Maria, Hiền Thê của Thiên Chúa Thánh Thần! Không ai cao cả hơn Mẹ ngoài một mình Thiên Chúa!19
Từ Mẫu của chúng ta.
Salve, Mater misericordiae, Mater spei et Mater veniae… Chào kính Mẹ thương xót, Mẹ niềm cậy trông và tha thứ, Mẹ Thiên Chúa và Mẹ ân sủng, Mẹ tràn đầy niềm vui thánh thiện.
Chúng ta thân thưa với Mẹ bằng những lời thánh thi truyền thống như thế. Với tình ân cần từ mẫu, Mẹ hằng dâng lên Con Mẹ những lễ dâng của Dân Chúa còn trên dương thế. Mẹ cư xử với chúng ta như một người mẹ. Mẹ nhìn thấy Chúa Giêsu nơi mỗi tín hữu, nơi mỗi con người. Là Đấng Đồng Cứu Chuộc, Mẹ hết lòng khát khao cho chúng ta được trọn vẹn hợp nhất với sự sống thần linh. Mẹ luôn sẵn sàng giúp đáp chúng ta trong mọi khốn khó và thử thách xảy đến. Mẹ luôn đứng về bên chúng ta trong công việc tông đồ mà chúng ta phải thực thi giữa trần thế. Hãy kêu cầu Đức Trinh Nữ. Hãy cứ xin Mẹ tỏ ra là một Hiền Mẫu đối với bạn – ‘monstra te esse Matrem!’ Khi trào đổ nguồn ơn thánh từ nơi Con Mẹ, nguyện xin Mẹ cũng làm cho giáo lý lành mạnh trở nên sáng sủa cho tâm trí bạn, tình yêu và sự thanh khiết cho trái tim bạn, để bạn biết đường mà đến với Chúa và đưa nhiều linh hồn đến cho Người.
Lời kinh từ phụng vụ - monstra te esse Matrem! xin Mẹ tỏ ra là một Hiền Mẫu - có thể giúp chúng ta sống kết hợp với Mẹ trong ngày đại lễ hôm nay.
Mẹ của con ơi! Xin tỏ cho con biết Mẹ là Hiền Mẫu của con! Xin phù giúp con trong lúc cần thiết này, trong nhu cầu này…, xin Mẹ trợ giúp người con cần sống thân mật với Con của Mẹ đây.
Bắt đầu một năm mới, chúng ta hãy tận dụng giờ phút này để quyết tâm mạnh mẽ đến nương nhờ Mẹ mỗi ngày một hơn. Chúng ta sẽ không bao giờ tìm được một người bạn nào đáng tin hơn. Chúng ta hãy noi gương thánh Gioan, trên núi Canvê, ngài đã thay mặt toàn thể nhân loại tiếp nhận Mẹ: Từ giờ đó, môn đệ đưa Mẹ về nhà mình.
Chúng ta phải sống với Mẹ trọn tình hiếu kính, hết niềm tinh tế! Đây phải cách chúng ta hãy sống với Mẹ, trong năm mới này cũng như mãi mãi.
|
Suy Niệm 20 Lm. Phan Phát Huồn, CSsR
Nguồn: Vietcatholic
×
Mẹ là Mẹ Thiên Chúa Lm. Phan Phát Huồn, CSsR
Không có tước hiệu nào của Ðức Mẹ nói lên sự cao sang và quyền thế của Ðức Mẹ cho bằng tước hiệu MẸ LÀ MẸ THIÊN CHÚA. Vì Mẹ là Mẹ Thiên Chúa nên Mẹ là Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, Mẹ Hồn Xác Lên Trời, Mẹ Hằng Cứu Giúp, Mẹ Phù Hộ các Giáo Hữu...
Thiên Chúa không bao giờ chấp nhận tội lỗi, do đó không có một tì ố nơi Ngài, không có một liên hệ gì tội lỗi nơi Ngài. Chúa Giêsu là con của Mẹ Maria nhưng đồng thời cũng là Thiên Chúa, ngang hàng với Chúa Cha, Chúa Thánh Thần, không lớn hơn và cũng không thua kém hơn, nhưng Thiên Chúa Ngôi Hai ấy cũng là con của Mẹ Maria và vì thế mà Mẹ được ân sủng mà không một ai ở trần thế có thể có được: Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội.
Sau lúc chúng ta chết, xác chúng ta trở về với bụi tro vì chúng ta mắc tội nguyên tổ nhưng Mẹ Maria vì một ân huệ đặc biệt của Thiên Chúa, được vô nhiễm nguyên tội, do đó xác Mẹ cũng không bị hư nát và hồn cũng như xác Ngài được về trời, sự việc ấy là hữu lý.
Với một dụng ý, Giáo Hội đã chọn ngày mồng một tháng Giêng hằng năm để kính Mẹ là Mẹ Thiên Chúa vì Giáo Hội muốn cho chúng ta hiểu rằng các tước hiệu của Mẹ trong năm đều do tước hiệu Mẹ là Mẹ Thiên Chúa.
Chúng ta lấy làm hân hạnh vì được thông phần với Chúa Giêsu làm con của Ðức Mẹ. Sự kiện này đã được công khai hóa khi bị treo trên Thánh Giá, trước lúc qua đời Chúa đã trối thánh Gioan cho Ðức Mẹ: này là Mẹ con. Lời trăn trối của một người trước khi chết luôn luôn là một lời quan trọng và luôn luôn Lời ấy được người còn sống nghe theo và đem ra thi hành.
Không những chúng ta lấy làm hân hạnh mà chúng ta còn lấy làm an ủi được làm con Ðức Mẹ, chúng ta thường thương hại những đứa bé mồ côi Mẹ, vì chúng sẽ thiếu thốn mọi sự nhất là thiếu tình thương. Có Mẹ Maria, chúng ta sẽ không bao giờ thiếu tình thương ấy trong cuộc hành trình gian khổ của chúng ta qua biển cả trần gian này.
Lạy Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, cũng là Mẹ của chúng con, xin cầu cho chúng con.
|
Suy Niệm 21 Sưu Tầm
×
Mẹ Thiên Chúa Sưu Tầm
Có một nhóm giáo dân trong một thành phố nhỏ quyết định làm một máng cỏ giáng sinh ở công trường. Họ đi xin những người hảo tâm giúp đỡ.
Đứng đầu danh sách những người hảo tâm là ông chú bút một tờ tuần báo địa phương. Ông ta ủng hộ việc này cho tới lúc cha cha sở phát biểu. Nhiều người, nhất là trẻ em sẽ phấn khởi nhìn thấy Chúa Hài Nhi, Đức Mẹ, thánh Giuse và cả những con vật nữa, ở đây ngay tại trung tâm thành phố.
Thế nhưng, ông chủ bút liền kêu to:
- Không, phải bỏ Đức Mẹ đi, đừng có bày đặt lắm chuyện làm chi.
Cha sở nghe vậy bèn nói với ông ta:
- Ông bảo gì vậy? Ông thử nói cho tôi hay: Một người sinh ra mà lại không do người mẹ, thì tôi sẽ đồng ý bỏ Đức Mẹ. Đức Mẹ phải ở với Con mình trong công trường thành phố. Tại sao không?
Đúng thế, Mẹ đã ở với Chúa Giêsu ngay từ lúc Ngài được dựng thai cho tới khi Ngài lên trời và Mẹ còn liên kết với Ngài trong suốt dòng lịch sử. Vì thế, chúng ta không thể tưởng nghĩ tới Chúa Giêsu mà không tưởng nghĩ Mẹ Ngài. Cũng như chúng ta không thể tưởng nghĩ đến một em bé mà không tưởng nghĩ đến người mẹ của em.
Chúa Giêsu là người thật nhưng cũng là Thiên Chúa thật. Đức Maria là Mẹ của Thiên Chúa làm người, theo ý nghĩa là con trẻ Mẹ sinh ra có bản tính Thiên Chúa và bản tính con người.
Ngày đầu năm dương lịch, Giáo hội muốn chúng ta tôn vinh Mẹ Thiên Chúa. Bởi vì không ai xứng đáng được gọi là mẹ sự sống cho bằng Mẹ Thiên Chúa. Mẹ đã ban sự sống nhân loại cho Chúa Giêsu, Đấng đã nói: Tôi đến cho người ta được sống và sống dồi dào. Một đời sống thể lý tốt đẹp hơn, một đời sống tinh thần tốt đẹp hơn. Điều đó sẽ làm cho mọi người được hạnh phúc trong năm mới. Chúng ta phải chú trọng giá trị của sự sống. Những vụ tàn sát, những tai nạn xe cộ, những cuộc chiến và đói kém đã cướp đi hàng trăm ngàn cuộc sống. Sự sống đã trở thành rẻ mạt. Một cuộc nghiên cứu mới đây cho biết: trẻ em Hoa Kỳ ở vào tuổi 17 đã xem 18.000 vụ tàn sát qua truyền hình. Đồng thời trong năm mới này có biết bao nhiêu bà mẹ, thay vì cho con cái mình sự sống, thì đã giết chúng bằng những vụ phá thai. Vì thế, chúng ta cần đến một người mẹ cao siêu để chấm dứt sự tàn sát này. Bước sang năm mới, Mẹ Thiên Chúa làm người, sẵn sàng cứu giúp mọi bà mẹ để trao ban sự sống thay vì huỷ diệt nó đi. Mẹ cũng sẵn sàng xin được nơi người Con của mình một sự sống tinh thần mạnh mẽ hơn, một sự sống được tiếp tục ngay cả sau cái chết thể xác. Sự sống mà người Con của Mẹ đã ban cho chúng ta một cách dồi dào trong thánh lễ và trong các bí tích. Một sự sống ngập tràn hạnh phúc mà chúng ta sẽ cầu chúc cho nhau trong năm mới này.
|
Suy Niệm 22 Sưu Tầm
×
Mẹ Thiên Chúa Sưu Tầm
Có một chàng thanh niên sống bê tha và tội lỗi. Anh cảm thấy chán nản và tuyệt vọng... Trong cơn khủng hoảng ấy, tình cờ anh đã bước vào một ngôi nhà thờ và đến ngồi trước tượng Đức Mẹ. Anh không thuộc một lời kinh nào để cầu nguyện và anh cũng chẳng biết Đức Mẹ là ai. Vì thế anh đã thốt lên:
- Nếu Ngài quả thực hiện diện nơi đây, thì xin hãy làm cho con được tin.
Bỗng dưng như có một làn gió mát thổi vào tâm hồn và anh cảm thấy được bình an và sau đó đã làm lại cuộc đời mình.
Từ câu chuyện trên chúng ta nhận thấy Mẹ Maria không phải chỉ là Mẹ Thiên Chúa, mà còn là mẹ của mỗi người chúng ta. Mẹ hằng yêu thương, chăm sóc và giúp đỡ chúng ta.
Khi sinh Đức Kitô, thì đồng thời, Mẹ cũng sinh ra một nhân loại mới, như lời thánh Phaolô đã xác quyết: Khi thời gian viên mãn, Thiên Chúa sai Con Ngài xuống thế, sinh làm con một người nữ và sống dưới chế độ luật Do Thái để cứu chuộc những người sống dưới luật đó, hầu chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa.
Và Công đồng Vat. II đã diễn tả: qua mầu nhiệm nhập thể, Con Thiên Chúa đã tự liên kết mình với mọi người. Ngài làm việc bằng đôi tay, suy nghĩ bằng khối óc, hành động bằng sự chọn lựa và yêu thương bằng trái tim loài người. Sinh ra từ lòng Đức Trinh Nữ Maria, Ngài thực sự trở thành một người trong chúng ta, hoàn toàn giống như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi.
Đức Maria là mẹ chúng ta, nên Mẹ luôn nâng đỡ bầu cử cho chúng ta trước mặt Chúa. Không biết đến Mẹ là không biết đến món quà quí giá mà Thiên Chúa đã ban tặng, đó chính là tình mẫu tử của Mẹ Maria đối với chúng ta.
Điều này khiến chúng ta nghĩ tới năm mới. Năm mới với niềm hy vọng mới, với cuộc đời mới, là cơ hội để chúng ta bắt đầu lại. Năm cũ đã qua rồi, năm mới như trang giấy mở rộng trước mắt chúng ta. Thật là thích hợp khi Giáo Hội chọn ngày đầu năm để mừng kính Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa. Sự kiện này nhắc chúng ta nhớ đến tình mẫu tử của Me, nhớ đó chúng ta có được niềm hy vọng mới và cuộc đời mới.
Nếu chúng ta đang tìm cho mình một hướng đi trong năm mới, thiết thưởng không một hướng đi nào vừa bảo đảm lại vừa tốt đẹp cho bằng hãy chạy đến với Đức Maria. Với chức vụ làm Mẹ Thiên Chúa, Mẹ có đủ khả năng để bầu cử và giúp đỡ chúng ta. Với địa vị làm mẹ chúng ta, ẹ có dư tình thương, để sẵn sàng thực hiện những điều chúng ta van xin, vì vậy chúng ta vốn thường đọc:
- Xưa nay chưa từng nghe nói có người nào chạy đến kêu xin cùng Mẹ mà Mẹ chẳng nhận lời.
Hay như thánh Bernado cũng đã bảo:
- Kêu xin Mẹ, chúng ta sẽ không bao giờ bị lầm được lạc lối.
Bởi đó trong giây phút linh thiêng này, chúng ta hãy đặt trót 365 ngày của năm mới này dưới sự che chở và nâng đỡ của Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa và Mẹ chúng ta.
|
Suy Niệm 23 Gm. Arthur Tonne
×
Mẹ Thiên Chúa Gm. Arthur Tonne
Ngày 20 tháng giêng 1961 John Kennedy làm Tổng Thống thứ 35 của Hoa Kỳ. Một người Công Giáo đầu tiên giữ chức vụ chóp bu. Trong ngày nhậm chức, có mặt tất cả dòng họ Kennedy, cùng bà mẹ đứng một chỗ danh dự. Vào lúc John Kennedy thề nhậm chức và trở thành Tổng Thống thì Rose Kennedy trở thành Mẹ của Tổng Thống.
Khi bà sinh John vào năm 1917, Bà đã cho đất nước Hoa kỳ một con người mà sau này làm Tổng Thống. Bà không sinh ra một con người Tổng Thống. Nhưng thật sự và đúng là mẹ của một Tổng Thống.
Một cách tương tự, nhưng không y hệt như thế, chúng ta xưng tụng Đức Nữ đồng trinh là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ đã sinh ra Chúa Giêsu Kitô đấng vừa là Thiên Chúa vừa là Người. Đức Maria không sinh ra Chúa là Chúa. Đức Maria cũng không phải là Chúa hay Bà Chúa. Mẹ là một con người có hạn, được vinh dự dâng hiến bản tính nhân loại cho Ngôi Con trong Ba Ngôi Thiên Chúa. Qua Mẹ, Đức Giêsu là một người thật và cũng là Thiên Chúa thật. Đó là chân lý chúng ta mừng lễ hôm nay. Ngày đầu năm dương lịch.
Tại sao chúng ta công khai tung hô Maria là Mẹ Thiên Chúa ngay sát lễ giáng sinh? Lý do rất tự nhiên khi chúng ta thăm một em bé mới sinh, dễ nhiệm chúng ta muốn biết sức khoẻ của em, Em nặng mấy ký và em giống ai. Thế rồi bao giờ chúng ta cũng muốn biết về sức khoẻ của người Mẹ. Cả tuần nay chúng ta ngắm nhìn Chúa Hài Đồng trong Máng cỏ. Hôm nay chúng ta có lý do hướng về Mẹ của Ngài.
Một lý do khác nữa: trong ngày đầu năm, chúng ta cầu chúc cho nhau năm mới vui tươi, hạnh phúc. Nghĩa là chúng ta hy vọng và cầu xin cho bạn bè, những người thân yêu được một năm thánh thiện để họ biết Chúa Kitô nhiều hơn, yêu mến người nồng nàn hơn và phụng sự người trung thành hơn như Đức Mẹ đã làm. Để được như vậy không có gì giúp ta, hơn sự thúc đẩy và trợ giúp của Người Mẹ ấy, Chúa Giêsu và tôn kính mẹ, Người cũng muốn chúng ta yêu và Tôn kính Mẹ của Người.
Chúng ta có thể gợi một so sánh nữa; John Kennedy đã tham dự Thánh lễ vào buổi sáng ông nhậm chức. Ông làm thế để cám ơn Mẹ ông. Bà đã dự Thánh lễ mỗi ngày từ khi bà kết hôn. Mẹ Tổng Thống Kennedy đã chứng kiến cái chết rùng rợn của con bà, cũng thế Mẹ Thiên Chúa cũng chứng kiến cảnh tượng đóng đinh ghê sợ của Con Mẹ. Cái chết của Chúa Kitô được tái diễn trên bàn thờ này mọi ngày. Chúng ta hãy làm cho Thánh lễ thêm quan trọng hơn trong ngày đầu năm này và bạn sẽ Thánh và hạnh phúc trọn một năm. Hãy xin Thiên Chúa, nhờ Thánh lễ này cho bạn và những người thân yêu của bạn sự phù giúp bạn cần, để làm cho năm nay hạnh phúc.
Bạn đặc biệt để ý tới lời kinh nguyện Thánh Thể II "xin cho chúng con xứng đáng hưởng sự sống đời đời cùng với Đức Trinh nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa" sau Thánh lễ bạn hãy tìm tới máng cỏ và nhớ tới Mẹ Thiên Chúa. Mẹ sẽ thực hiện lời chúc mừng và cầu xin của tôi cho tất cả các bạn.
|
Suy Niệm 24 Giuse Ngô Quang Kiệt
×
Nhân Loại Mới Giuse Ngô Quang Kiệt
Lc 2, 16-21
Ngày đầu năm mới là một ngày thiêng liêng. Ai cũng mong ước năm mới mọi sự sẽ đổi mới. Sẽ có nhiều thuận lợi hơn trong cuộc sống. Nhất là được sống bình an. Các bài Sách Thánh đặc biệt bài Tin mừng hôm nay mời gọi ta hãy tìm đổi mới trong Chúa Giêsu. Chính Người sinh ra một nhân loại mới. Đó là nhân loại được chúc phúc, được cứu độ và sống trong an bình.
Đó là một nhân loại được chúc phúc. Khi Chúa Giêsu ra đời nhân loại được chúc phúc. Có nhiều dấu hiệu loan báo phúc lành của Chúa. Một làn ánh sáng từ trời soi sáng cánh đồng Bêlem. Xuất hiện muôn vàn thiên sứ hát mừng trên trời cao. Chúa Giêsu đem phúc lành của Thiên Chúa đến cho nhân loại. Chúa Giêsu chính là phúc lành tuyệt hảo của Thiên Chúa. Chúa Giêsu là món quà cao quí nhất Thiên Chúa tặng ban cho nhân loại. Mang lấy bản tính nhân loại, Chúa Giêsu làm cho nhân loại được chúc phúc bằng những phúc lành phong phú nhất của Thiên Chúa.
Đó là một nhân loại được cứu độ. Con trẻ được đặt tên là Giêsu. Tên Giêsu có nghĩa là Thiên Chúa cứu. Chúa Giêsu đi vào tận những tù ngục giam hãm để giải cứu con người. Người sinh ra làm một trẻ thơ để nâng đỡ những con người bé nhỏ. Người sinh trong cảnh thiếu thốn để nâng lên những ai nghèo hèn. Người bị bạo vương Hêrôđê săn đuổi để đứng về phía những người bị áp bức. Người sinh ra trong chuồng súc vật tăm tối để trân trọng những ai bị loại trừ. Người là Con Thiên Chúa xuống thế làm người để nâng con người lên làm con Thiên Chúa. Thật là một cuộc đổi mới không ai có thể ngờ tới.
Đó là một nhân loại sống trong hòa bình. Đêm Chúa Giáng Sinh trời đất giao hòa. Trời Bêlem sáng lên. Thiên nhiên trở nên xinh đẹp. Các thiên thần làm đầy không gian bằng những bài ca tuyệt diệu của cõi thiên đàng. Các mục đồng vui tươi hớn hở loan truyền tin vui. Cả một bầu khí hòa bình tỏa ra chung quanh Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đến tái lập trật tự. Trật tự đó là con người và vạn vật vâng phục Thiên Chúa. Luật lệ phát xuất từ con người luôn gây ra tranh chấp. Vì con người chỉ nghĩ đến tư lợi hạn hẹp của riêng mình. Mọi luật lệ muốn công bằng và lâu bền phải qui về Thiên Chúa. Thiên Chúa ban hòa bình thực sự. Hòa bình trong công lý. Công lý là những người bé nhỏ, yếu ớt phải được tôn trọng. Chúa Giêsu tự nguyện làm trẻ nhỏ sơ sinh chính là một nền hòa bình trong vâng phục Thiên Chúa và là công lý kêu gọi kính trọng bảo vệ những kẻ yếu hèn.
Hòa bình như thế không phải là một trật tự im lìm. Trật tự im lìm chỉ có trong nghĩa địa hay nhà tù. Đó là trật tự chết chóc, tàn lụi. Trái lại hòa bình là một năng động, là một sức sống, là sự phấn đấu không ngừng.
Ta hãy chiêm ngắm tấm gương của các mục đồng. Các mục đồng đã biết lắng nghe sứ điệp hòa bình dù giữa đêm hôm mùa đông đang say ngủ. Nghe biết sứ điệp hòa bình rồi, các mục đồng vội vã đi tìm Chúa Giêsu là nguồn mạch hòa bình, dù phải bỏ giấc ngủ, dù phải đi ngoài trời lạnh giá. Sau khi gặp Chúa, các mục đồng ra đi loan truyền sứ điệp hòa bình cho mọi người. Đó chính là những phấn đấu không ngừng cho hòa bình.
Chúng ta đặt năm mới này vào tay Đức Mẹ. Xưa Đức Mẹ đã sinh ra Đấng Cứu Thế mở đầu một nhân loại mới, nay xin Đức Mẹ cũng cho năm mới này được chúc phúc, được cứu độ và được hòa bình. Chúng ta cũng cầu nguyện cho mọi người biết noi gương mục đồng, luôn lắng nghe sứ điệp hòa bình, luôn phấn đấu đi tìm đến nguồn mạch hòa bình và luôn phấn khởi loan tin mừng hòa bình.
Lạy Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, xin cầu cho chúng con. Amen.
|
Suy Niệm 25 Sưu Tầm
×
Nữ Vương Hòa Bình Sưu Tầm
Một bà mẹ có người con trai bỏ mình trong chiến tranh. Bà không thể nào quên được người con đó. Nỗi sầu thương cứ mãi mãi vương vấn tâm hồn bà. Bà luôn cầu nguyện để được gặp lại con, dù chỉ trong năm phút.
Một hôm, Chúa sai thiên thần báo cho bà chuẩn bị gặp lại con. Những giọt lệ bỗng biến thành niềm vui, bà thúc giục thiên thần cho bà gặp lại con ngay. Nhưng thiên thần bảo bà:
- Bà hãy bình tĩnh. Con bà đã là một người trưởng thành. Con bà đã chết 30 năm nay, bà muốn gặp nó vào tuổi nào: như một người lính chiến ngoài mặt trận, hoặc như một đứa bé chạy nhảy trên sân trường, hay như một em bé nép mình trong lòng bà?
Không do dự, bà muốn được gặp lại con như một đứa trẻ nhỏ đến xin lỗi bà vì đã không ngoan, một đứa bé yếu đuối, nước mắt chảy ràn rụa chạy đến và ngả vào lòng bà. Đó là hình ảnh mà bà không thể nào quên được về đứa con của bà.
Anh chị em thân mến,
Trong mùa Giáng Sinh, chúng ta có dịp chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ. Chúng ta không thể nhìn thấy Chúa Giêsu mà quên Đức Maria bên cạnh Ngài. Chào đời như một hài nhi, có lẽ Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta rằng Ngài cần có một người mẹ để được cưu mang, được sinh ra, được lớn lên như một con người. Có thể nói, mùa Giáng Sinh cũng là mùa lễ Đức Mẹ. Đặc biệt ngày đầu năm Dương lịch hôm nay, phụng vụ muốn tôn kính Đức Maria với tước hiệu là Mẹ Thiên Chúa. Và từ năm 1968 Đức Giáo Hoàng Phaolô VI lại dành ngày 1 tháng Giêng nầy để cầu nguyện cho hoà bình thế giới. Chủ đề của ngày Hoà Bình Thế Giới năm nay cũng đề cập đến vai trò của người phụ nữ, người mẹ: "Phụ nữ, nhà giáo dục hoà bình".
Nhìn vào hang đá, ai lại không nói rằng Đức Maria là Mẹ của Chúa Giêsu. Và sở dĩ chúng ta chú ý đến máng cỏ là vì Hài Nhi Giêsu nằm đó là chính Thiên Chúa nhập thể làm người, là con của Đức Maria. Trong mầu nhiệm Con Thiên Chúa làm người, Đức Maria đã có một vai trò đặc biệt, vì Người được chọn làm Mẹ Đức Giêsu Kitô, là Thiên Chúa. Thiên Chúa hằng hữu, tự hữu, không ai sinh ra Thiên Chúa. Nhưng nay, Thiên Chúa đã sinh ra làm người. Đức Maria đã sinh ra Đức Giêsu là người thật và là Thiên Chúa thật, nên Đức Maria cũng là Mẹ của Thiên Chúa. Ở những thế Kỷ III-V, có những lạc giáo phủ nhận tước hiệu Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, khiến phụng vụ nhấn mạnh hơn đến tước hiệu nầy.
Chúng ta đừng sợ tước hiệu nầy xúc phạm đến Thiên Chúa cao cả. Ngài đã chấp nhận giáng trần để trở nên hoàn toàn như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Ngài đã chấp nhân mọi luật lệ sinh sống, đau khổ và tử nạn, thì sao ta lại sợ nói phạm đến Ngài khi bảo Ngài là con của một người mẹ? Ngài đã gọi chúng ta là anh em và muốn là bạn hữu của mọi người, và chúng ta lấy đó làm vinh dự, thì chúng ta càng không có lý khi không muốn tuyên xưng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Suy nghĩ kỹ, chúng ta chỉ có thể thấy đây là một vinh dự lớn lao cho một người trong loài người chúng ta: Mẹ Maria. Chúng ta phải hân hoan chúc tụng Mẹ là Đấng đầy ơn phúc: "Thánh Maria, Đức Mẹ chúa Trời".
Trong Tin Mừng hôm nay, Mẹ Maria hiện ra như là một từ mẫu ghi sâu tất cả những điều về Con và suy đi nghĩ lại trong lòng. Quả thật, người mẹ nào nào không tự hỏi về tương lai của con mình? Bất cứ dấu hiệu nào cũng khiến người mẹ suy nghĩ. Đức Maria không suy đi nghĩ lại sao được khi thấy các mục đồng đến thăm và kể chuyện về việc các thiên thần hiện ra ban đêm báo tin cho họ? Và Mẹ có thể nào không suy nghĩ về danh "Giêsu" mà từ nay theo lệnh sứ thần, Mẹ sẽ dùng để gọi con mình. Chính sứ thần đã giải thích trong buổi truyền tin: "Bà sẽ gọi con trẻ là Giêsu. Ngài sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Đấng Tối Cao. Chính Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Ngài ngai báu Đavít, Cha Ngài và Ngài sẽ cai trị trong nhà Giacóp đến muôn đời". Những lời đó không đơn giản, dễ hiểu. Nội dung chắc chắn vô cùng phong phú, Maria dĩ nhiên phải suy đi nghĩ lại trong lòng.
Hôm nay, các mục đồng lại kể thêm về các lời của thiên sứ. Hài Nhi trong máng cỏ là Đấng Cứu Thế, các thiên thần đã xướng ca: "Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương". Như vậy, Giêsu, Con của Đức Maria thực hiện lời tiên tri hứa cùng nhà Đavít. Ngài sẽ đem lại hoà bình cho Dân Chúa và vinh quang cho Thiên Chúa. Đức Maria hôm nay gẫm suy những điều ấy. Đấng Cứu Thế đem lại hoà bình, và Vua Hoà Bình. Nhưng tại sao trên thế giới hiện nay vẫn còn chiến tranh, tranh chấp, xung đột? Vì vậy, Đức Giáo Hoàng kêu gọi chúng ta hằng năm vào ngày đầu năm Dương lịch nầy hãy suy nghĩ và cầu nguyện cho hoà bình thế giới. "Phụ nữ, nhà giáo dục hoà bình", đó là chủ đề được Đức Thánh Cha chọn cho ngày Hoà Bình Thế Giới năm 1995. Với chủ đề nầy, người ta muốn trước tiên công nhận vai trò không thể thiếu mà người phụ nữ có thể đóng góp cho hoà bình, như qua việc thường xuyên giáo dục giới trẻ, hay qua sự chống đối những hoàn cảnh bạo lực thường xảy ra. Qua chủ đề nầy, Đức Giáo Hoàng cũng ước ao vọng lên một lời mời cấp bách, thôi thúc các chị em phụ nữ này càng trở thành những người xây dựng không mệt mỏi trong khuôn khổ gia đình mình cũng như trong các tổ chức xã hội.
Thưa anh chị em,
Đất nước chúng ta đã thoát khỏi những năm chiến tranh. Nhưng chúng ta vẫn còn nhiệm vụ phải suy nghĩ về hoà bình. Bởi vì hoà bình không phải chỉ là chấm dứt chiến tranh. Hoà bình còn là xây dựng bình đẳng, ấm no, thịnh vượng, hạnh phúc nữa. Phần tích cực có thể nói còn gồm nhiều mặt hơn phần tiêu cực. Vả lại, hết chiến tranh cũng chưa phải là đã hết những hậu quả của chiến tranh là những thương tích, đổ vỡ vật chất và tinh thần. Chúng ta phải cải tạo cái cũ, xây dựng cái mới. Hoà bình hạnh phúc phải là khí thở của mọi người trên thế giới. Chúng ta đóng góp được gì? Hãy suy nghĩ về hoà bình như Đức Maria hằng suy đi nghĩ lại trong lòng. Người suy nghĩ về danh "Giêsu", có nghĩa là cứu thế. Danh đó phải được kêu cầu trên con cái loài người, để phúc lộc được đổ xuống trên các dân (X.Bđ.1) và phước lộc phong phú cụ thể là chính Thánh Thần mà Thiên Chúa muốn đổ xuống lòng mọi người, để khi chúng ta gọi Chúa là Cha thì chúng ta Thấy mình là anh em với nhau (X. Bđ.2), để sống hoà thuận yêu thương nhau, sống vì hạnh phúc của anh em mình. Yêu hoà nình thì phải xây dựng công bằng, bác ái, phải kiến tạo bình đẳng, ấm no, thịnh vượng, hạnh phúc. Hoà bình đòi phải phấn đấu và đấu tranh, để tiêu diệt cái xấu và phát triển cái tốt. Rất nhiều công tác cụ thể đang ở tầm tay mỗi người chúng ta. Hết thảy chúng ta hãy tích cực, để không chỉ nói hoà bình nhưng muốn xây dựng hoà bình. Trong này Thế Giới Hoà Bình hôm nay và là ngày lễ Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, chúng ta xin Đức Maria là Nữ Vương Hoà Bình ban cho chúng ta, cho các gia đình, cho cộng đoàn giáo xứ, nền hoà bình của Chúa Kitô – Hoà bình mà Đấng Cứu Thế, Con của Mẹ Maria đã đem xuống trần gian cho loài người trong đêm Giáng Sinh, để chúng ta biết sống hoà thuận yêu thương nhau, đoàn kết xây dựng hoà bình trên quê hương đất nước và trên toàn thế giới.
|
Suy Niệm 26 Sưu Tầm
×
Lễ Mẹ Thiên Chúa Sưu Tầm
Hôm nay chúng ta mừng kính lễ Mẹ Thiên Chúa, chúng ta cầu nguyện cho nền hòa bình thế giới, và chúng ta chính thức bước vào năm mới.
Khởi đầu thế kỷ 21, chúng ta đã được chứng giám việc khủng bố chiếm máy bay và đâm vào tòa tháp đôi tại Nữu Ước. Rồi từ đó, chiến tranh bùng nổ tại Afghanistan, tại Irak, khủng bố dường như có mặt ở khắp nơi. Và gần đây những cuộc thử hạt nhân ở Iran và Triều Tiên, đã làm cho thế giới nóng lên vì hận thù, vì chiến tranh.
Chính vì thế, trong tinh thần liên đới và ý thức rằng: Hòa bình là một hồng ân của Thiên Chúa, chúng ta hãy hiệp ý cầu nguyện cho yêu thương được ngự trị, cho oán thù được tiêu tan, cho mọi người biết tha thứ và yêu thương nhau như chính bản thân mình. Tất cả những ý nguyện ấy như một âm vang của lời kinh hòa bình: Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa, để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm.
Lời kinh này là của thánh Phanxicô Assie, một người được cả thế giới chọn làm biểu tượng của hòa bình, bởi vì ngài là một người nghèo khó đích thực của Thiên Chúa. Có lẽ ai trong chúng ta cũng còn nhớ cái giai thoại sau đây:
Vì đã đem hết gia tài phân phát cho kẻ nghèo đói, nên ngài đã bị người cha đem ra tòa, đòi phải từ bỏ mọi tài sản mà gia đình muốn để lại. Không một chút do dự, Phanxicô đã trút bỏ áo quần để trả lại cho người cha như một biểu tượng của tài sản cuối cùng mà ngài nhận được từ gia đình. Và cũng từ đó, Phanxicô đã trở thành người nghèo khó đích thực của Thiên Chúa.
Thế nhưng, ngài có tất cả mọi sự, bởi vì ngài có Thiên Chúa làm gia nghiệp. Một khi đã có Thiên Chúa thì ngài cũng có được niềm vui trọn vẹn. Cho nên, ngài không những có sự bình thản trong tâm hồn mà còn có sự hòa hợp với người khác và ngay cả với thiên nhiên. Hòa bình trong chính bản thân, hòa bình với tha nhân đó chính là cái lý tưởng mà ngài đã để lại cho thế giới.
Chúng ta cũng hãy chiêm ngưỡng Mẹ Maria, Nữ Vương Hòa Bình. Giáo hội có thói quen cử hành ngày hòa bình thế giới vào ngày đầu năm dương lịch kính Mẹ Thiên Chúa. Sở dĩ chúng ta gọi Mẹ là Nữ Vương Hòa Bình, bởi vì Mẹ là người nữ tì khiêm hạ và khó nghèo của Thiên Chúa. Mẹ đã trút bỏ mọi sự để trở thành trống rỗng và rồi được chính Thiên Chúa lấp đầy.
Như thế, người xây dựng hòa bình là người được Thiên Chúa lấp đầy tâm hồn mình. Cũng như Mẹ Maria và thánh Phanxicô, chúng ta cũng được mời gọi trút bỏ mọi sự. Tinh thần nghèo khó đích thực cũng chính là một thể hiện của tinh thần hòa bình. Bởi vì, khi con người không còn màng đến bất cứ một thứ riêng tư nào, khi con người không còn muốn chiếm hữu bất cứ một thứ của cải nào, thì lúc đó con người có thể bình thản đến với Chúa và với anh em.
Hòa bình là một cuộc ra đi không ngừng và ra đi là để đến với Thiên Chúa và đến với người khác, bằng tha thứ, bằng yêu thương, bằng giúp đỡ.
Bởi vì, như lời thiên thần đã hát vang trong đêm Giáng sinh: Bình an dưới thế cho người thiện tâm.
|
Suy Niệm 27 Sưu Tầm
×
Phẩm chức cao cả của Mẹ Sưu Tầm
Mẹ Thiên Chúa, đó là phẩm chức cao cả nhất của Đức Maria, chính phẩm chức cao cả này là nền tảng mỗi đặc ân khác dành cho Mẹ. Công đồng Vaticano II đã trình bày các đặc ân liên kết với phẩm chức Thiên Chúa như sau:
- “Không có gì lạ, nếu các giáo phụ đã thường xưng tụng Mẹ là Đấng toàn thánh, không vương nhiễm một tội nào, như một tạo vật mới do Chúa Thánh Thần uốn nắn và tác thành. Tràn đầy thánh thiện, có một không hai ngay từ lúc thụ thai, Đức Trinh Nữ thành Nazareth được Thiên thần vâng lệnh Chúa đến truyền tin và đã kính chào là “Đầy ơn phườc” (Lc. 1,28). (GH.59).
- “Được gìn giữ tinh sạch khỏi mọi vết tội nguyên tổ, và sau khi hoàn tất cuộc đời dưới thế, Đức Nữ Trinh Vô nhiễm đã được đưa lên hưởng vinh quang trên trời cả hồn lẫn xác, và được Thiên Chúa tôn vinh làm nữ Vương vũ trụ, để nên giống Con Ngài cách trọn vẹn hơn” (GH.59).
- “Đức Maria luôn tiếp tục thiên chức làm Mẹ... Thật vậy, sau khi về trời, vai trò của Ngài trong việc cứu chuộc không chấm dứt, nhưng Ngài vẫn tiếp tục liên lỉ cầu bầu để đem lại cho chúng ta những ân huệ giúp chúng ta được phần rỗi đời đời... Vì thế trong Giáo hội, Đức Trinh Nữ Maria được kêu cầu qua các tước hiệu: trạng sư, vị bảo trợ, Đấng phù hộ và Đấng Trung gian” (GH.62)
Như vậy, long trọng mừng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, chúng ta hãy tỏ một niềm tin vững chắc vào vai trò của Mẹ trong chương trình cứu rỗi nhân loại. Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa vì Ngài đã sinh ra cho chúng ta Thiên Chúa cứu chuộc. Trong buổi Truyền Tin, chính sứ thần Gabriel đã quả quyết: “Người sẽ thụ thai và sinh con... trẻ sẽ sắp sinh sẽ được gọi là Đấng Thánh, là Con Thiên Chúa” (Lc 1,31-35). Được Thánh Thần linh hứng, bà Elisabeth cũng đã lên tiếng: “Bởi đâu tôi được thế này, là mẹ Chúa tôi đến với tôi” (Lc1,43). Niềm tin vào chức phẩm cao quí là Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria đã có từ đầu Giáo hội. Chính thánh Phaolô đã viết: “Khi thời viên mãn đến, Thiên Chúa sai con của Người, sinh bởi người Nữ” (Gl 4,4).
Tiếp tục niềm tin đã có từ đầu, các tín hữu còn xác tín hơn nữa do biến cố dẫn tới những xác quyết chắc chắn của Công đồng chung Ephêsô (năm 413). Nestoriô khi ấy bác bỏ tước hiệu Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria, ông chỉ chấp thuận Đức Maria là Mẹ Chúa Kitô, vì Ngài chỉ sinh ra xác thể Chúa Kitô thôi, chống lại lời rao giảng của Giám mục Nestoriô, khoảng hai trăm Giám mục đã họp tại Ephêsô ngày 22.6.431, dưới quyền chủ tọa của Thánh Cyrillô thành Alexandrioa. Công đồng này kết án Nestoriô và tuyên bố tín điều Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Toàn thể dân thành đã công khai bày tỏ niềm hân hoan trước thành quả này. Họ tổ chức rước đuốc để mừng các nghị phụ công đồng. Cũng từ công đồng này mà có phần sau của kinh Kính mừng: “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội khi nay và trong giờ lâm tử”.
Hợp với niềm hân hoan của dân Chúa dịp công đồng Êphêsô bế mạc, niềm tôn kính dâng lên Mẹ Thiên Chúa ngày một thêm sâu đậm. Vua Giuse Emmanuel nước Bồ Đáo Nha đã xin ông được đặc ân mừng lễ Mẹ Thiên Chúa. Thánh bộâ nghi lễ đã ban bố sắc lệnh thiết lập ngày 22 tháng giêng năm 1751 và ấn định vào Chúa nhật đầu tháng năm. Từ đó nhiều nước cũng được hưởng đặc ân này. Năm 1931, dịp kỷ niệm 1500 năm, công đồng Ephêsô, Đ.G.H Piô XI đã lập lễ Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, kính trọng thể trong khắp Giáo hội vào ngày 11 tháng 10. Chính Đức giáo hoàng Piô XI đã viết:
- “Tín điều Mẹ Thiên Chúa là một mối nước mầu nhiệm vô tận, đã tuôn ra mọi đặc ân cho Đức Mẹ và nâng Người lên một địa vị cao sang tuyệt vời bên Thiên Chúa (Lux Veritatis 1931).
Năm 1962, Đức Giáo hoàng Gioan XXIII đã chọn lễ kính Mẹ Thiên Chúa làm ngày khai mạc công đồng Vaticanô II.
Đức giáo hoàng Phaolô VI dời ngày lễ vào đầu năm dương lịch, việc dời ngày kính này vào ngày thế giới Hòa Bình, nhấn mạnh thêm ý nghĩa lễ Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa hôm nay. Đức giáo hoàng Phaolô VI viết:
- “Khi canh tân mùa Giáng sinh, mọi người phải chú ý đến việc tái lập lễ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa vào ngày 1 tháng giêng, đúng phụng vụ Roma từ xưa, nhằm tôn kính việc Đức Maria góp phần vào mầu nhiệm cứu rỗi và tôn vinh địa vị đặc biệt, khiến cho “Mẹ rất thánh, đáng tiếp nhận Nguồn sống cho chúng tôi”. Lễ này cũng là dịp rất tốt để chúng ta tôn thờ Vua Hòa Bình mới sinh, và nghe lại lời chúc hoà bình của các thiên sứ (Lc 2,14), để cầu Chúa, nhờ sự can thiệp của Nữ Vương Hòa Bình, ban cho ta ơn cao cả nhất là Hòa bình. Vì sự trùng hợp tốt đẹp giữa ngày 1 tháng giêng với ngày thứ tám giáp Lễ Giáng sinh mà chúng tôi đã đặt ngày đó là ngày thế giới hòa bình, mà thế giới mỗi ngày càng hưởng ứng thêm, và thành quả của hòa bình đã phát sinh trong lòng nhiều Người” (ĐGH Phaolô VI. Marialis Cultus, số 5b)
|
Suy Niệm 28 Sưu Tầm
×
Một phát minh đẹp nhất Sưu Tầm
Hôm nay Giáo hội mừng lễ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa.
Đây là một trong những hồng ân mà Thiên Chúa dành cho Đức Maria Mẹ của chúng ta.
1. Đây là việc của Thiên Chúa, là sáng kiến của Thiên Chúa chứ không phải do công nghiệp gì của Đức Mẹ.
- Ngay từ những trang đầu của Sách Sáng Thế ký: Thiên Chúa đã báo trước cho chúng ta thấy về hình ảnh của một người phụ nữ.
- Trong Isaia 7,10-14 Giavê lại nói với Akhar lần nữa rằng: "Hãy xin với Giavê,Thiên Chúa của ngươi một dấu, sâu nơi đáy thẳm âm phủ hay là cao vời vợi bên trên" - Nhưng Akhar nói:" Tôi đâu dám xin thế, Tôi không muốn thử sức Chúa tôi". Ngài mới nói:"Hỡi nhà Đavid, hãy nghe đây. Phải chăng làm mệt người ta, các ngươi còn cho là quá ít hay sao, mà các ngươi lại còn muốn làm mệt cả Thiên Chúa nữa? Cho nên chính Ta Đức Chúa sẽ cho các ngươi một dấu: Này một cô nương sẽ thụ thai và sinh con và bà sẽ gọi tên Con là Emmanuel"
2. Tuy là sáng kiến của Thiên Chúa nhưng Thiên Chúa lại muốn con người cộng tác với Ngài. Đức Maria đã được Thiên Chúa đoái đến.
Lúc đầu khi chưa hiểu Đức Maria đã lưỡng lự, nhưng sau biết được công việc của Thiên Chúa, Mẹ đã nói lên lời :"Xin Vâng" Và từ Lời xin vâng đó Ngôi Hai Thiên Chúa đã nhập thể làm người.
Đức Maria đã làm Mẹ của Thiên Chúa.
3. Đức Maria Mẹ của Thiên Chúa nhưng cũng là Mẹ của loài người
Công đồng Êphêsô : Đức Maria không phải chỉ là mẹ của một người mà Thiên Chúa đã mang lấy, đã kết hợp với để phục vụ ơn cứu độ. Mẹ còn là Mẹ thật của Thiên Chúa Đấng nhờ Mẹ mà đi vào trong cuộc sống phiêu lưu của Con người"
- Chúa trở thành Con-của-loài-người Deus - Homo
Đức Mẹ Maria là mẹ của Chúa Giêsu mà Chúa Giêsu là Thiên Chúa làm người cho nên Đức Mẹ cũng là Mẹ của Thiên Chúa.
Trên cây Thánh gía Chúa còn trối Đức Mẹ cho Thánh Gioan để Đức Mẹ trở thành Mẹ của cả loài người.
1. Bài hát của Phạm thế Mỹ: Một bông hồng cho anh, một bông hồng cho em và một bông hồng cho những ai, cho những ai đang còn mẹ.
Cuộc đời có mẹ hạnh phúc lắm.
Tình thương của mẹ lạ lùng lắm
Câu truyện xử án của Vua Salomon.
2. Luca Durtain có viết nên một huyền thoại này:
Một ngày đẹp trời nọ trên dương gian
Sứ thần Grabriel ngồi nhìn xuống quả địa cầu....nét mặt ngài đang vui bỗng ngài chau mày lại. Ngài tự lẩm bẩm trong miệng:
- Thật là ghê tởm....Ghê tởm quá.
Vâng quả địa cầu trở thành ghê tởm, vì nó tràn ngập tội lỗi, chẳng khác gì thời ông Noe.
Tên Grabriel có nghĩa là"cánh tay của Thiên Chúa". Ngài liền đến trước ngai vàng phủ phục trước tôn nhan Chúa và thưa:
- Lạy Chúa, xin cho phép con được mượn lưỡi gươm của đồng nghiệp Micael để gọt vỏ quả địa cầu đi, sâu chừng năm bảy dặm như người ta gọt vỏ một củ khoai. Như thế là có thể loại bỏ được hết mọi nhờm gớm nhân gian cho khỏi tôn nhan Chúa.
Chúa trả lời:
"Được lắm! Nhưng nhà ngươi nên nhớ: Lưỡi gươm đã dùng trong vườn địa đàng ngày trước, bây giờ chỉ có quyền chém phá những gì có quyền chém phá thôi"
Được phép Chúa, sứ thầnGrabriel vụt bay xuống trần gian, xăn tay áo, gọt quả địa cầu, bắt đầu từ Bắc cực đi tới...
Mọi sự đều cúi mình san sát trước lưỡi gươm thần. Không ai, không vật gì, từ tảng đá cứng rắn nhất cho đến những ngọn núi cao ngất trời...tất cả đều cúi đầu vâng theo. Không ai , không có gì cưỡng lại được.
Nhưng rồi một hôm khi lưỡi gươm đi tới một ngôi làng nhỏ nằm ẩn khuất bên một sườn đồi, đột nhiên lưỡi gươm thần như đụng phải một vật gì cứng rắn lạ thường không thể nào đi qua nổi
- Có truyện gì lạ ở đây chăng?
Và sực nhớ lại lời Chúa đã dặn trước khi xuất hành, Grabriel xỏ gươm vào vỏ, hạ cánh tay xuống, bước vào trong ngôi nhà nhỏ kia xem có gì lạ chăng.
Ngài đã trông thấy gì ở trong đó?
Một chiếc nôi và bên cạnh một chiếc nôi ấy một người mẹ đang ngồi cặm cụi gọt vỏ khoai giống hệt như Ngài đang gọt quả địa cầu.
Đó chính là chướng ngại ngăn cản gươm thần lại không cho đi tới.
Trước cảnh tưởng ấy thầy Grabriel như đột nhiên tỉnh giấc mơ màng...
Ngài vội vàng quí sấp mặt xuống đất, vòng hai tay lại
- Phải rồi! Phải rồi! Hồi xửa hồi xưa đã có một lần ta phụng mệnh Thiên Chúa xuống trần gian, truyền tin hoan hỉ cho một Thiếu phụ trong làng Nagiareth, tại một căn nhà nhỏ hẹp gíống như căn nhà này. Thật ta đang làm một việc hết sức là nông nổi ngông cuồng!
Sau đó Ngài ngẩng đầu lên và nói:
"Hỡi đồng nghiệp Macael, tôi xin hoàn trả lại ngài thanh gươm này. Tôi đã khám phá ra rằng: Ở trên quả địa cầu này ít nhất có hai tạo vật còn mạnh mẽ hơn cả gươm thần sắc bén của ngài. Đó là một đứa trẻ thơ và một bà mẹ hiền
Vâng chính nhờ hai nhân vật ấy mà quả địa cầu mới đứng vững được cho đến ngày hôm nay.
1 Phát minh đẹp nhất
Phát minh đẹp nhất của Ta, ấy là Mẹ Ta
Chúa phán : phát minh đẹp nhất của Ta, ấy là Mẹ Ta.
Ta từng thiếu một người mẹ. và ta đã dựng nên Người.
Ta đã dựng nên Người trước khi Người sinh ra Ta.
Như thế bảo đảm hơn .
Bây giờ Ta thực sự là một con người
giống như mọi con người.
Ta không còn gì phải đua đòi với loài người
Vì ta đã có mẹ.
Một người mẹ thật.
Trước đây Ta từng thiếu mẹ.
Chúa phán : Mẹ Ta tên là Maria
Tâm hồn Người tuyệt đối tinh tuyền
và trần đầy ơn phước.
Thân xác Người trinh trong.
và mặc lấy một ánh sáng rạng ngời
Đến độ trên thế gian này
Ta nhìn xem Người,
lắng nghe Người,
chiêm ngắm Người,
không bao giờ chán.
Người thật đẹp, Mẹ Ta ấy. đẹp đến nỗi
dù Ta rời bỏ trời cao huy hoàng
Cạnh bên Người ta chẳng hề cảm thấy mình xa lạ.
Michel Quoist
ĐỨC MARIA, NGƯỜI MẸ THINH LẶNG
Mẹ là sự trong suốt khôn lường,
nơi khắc ghi lời kêu cứu của con.
Mẹ là sự chú tâm tinh tuyền
luôn lắng nghe những lời cầu dâng Mẹ,
rồi đón nhận mọi điều trong lặng lẽ
và dâng lên cho Cha Cả nhậm lời.
ôi Trinh nữ, xin tỏ ra là mẹ,
xin lấy ra từ kho báu mẹ hiền
và ban ơn quảng đại xuống triền miên
để con được tham gia vào thinh lặng.
Xin khỏa lấp tiếng ồn ào gây xao lãng
bằng lặng thinh, bắng lớp tuyết sạch trong.
Khi ý tưởng vu vơ làm vẩn đục,
Mẹ khiết trinh, xin mặc lấy cho con
đức trong trắng, như một chiếc áo choàng...
Ôi lạy Mẹ, Đấng muôn đời đổi mới,
Mẹ sinh ra đã không hề mắc tội,
xin dạy con luôn mãi biết tận tình
đi sâu vào thế giới của lặng thunh
đến chiều kích của con là vĩnh cửu.
Nữ tu Jeanne d Arc
Bài suy niệm của Đức Thánh Cha Phaolô VI
Toa pulchra es Maria ! Lạy Đức Ma-ri-a, cực kỳ diễm lệ !
Trong ngày kính trọng thể Đấng Vô nhiễm nguyên tội hôm nay, Giáo hội dâng lời ca ngợi đó lên Mẹ Đức Ki-tô. Đức Ma-ri-a là người phụ nữ được giữ gìn khỏi tội nguyên tồ, được nghĩ tới và chọn bởi Chúa Cha, để trở thành Mẹ Đấng Cửu thế. Khi đem đến cho Con Thiên Chúa, Đấng là "ánh vinh quang của Chúa Cha" (thánh Am-rô-xi-ô), một khuôn mặt nhân loại, đức Trinh nữ, cũng như mọi tạo vật khác, đã thấy rạng chiếu trên mình khuôn mặt của Chúa Cha đầy ân phúc và tình thương.
Vô nhiễm nguyên tội, một ân ban lạ thường, một đặc ân siêu tuyệt ! Nhờ vậy, đức Ma-ri-a hoàn toàn được gìn giữ khỏi nô lệ dự dữ và trở thành đối tượng của một sự yêu thích đặc biệt của Thiên Chúa, là người đầu tiên trên con đường của những kẻ được chuộc lại, của dân được Đức Ki-tô cứu.
Lễ Vô nhiễm nằm trong khuôn khổ Mùa Vọng, mùa tỉnh thức và cầu nguyện, chuẩn bị lễ Giáng Sinh. Nguyện xin Đấng, hơn mọi người khác, đã biết đợi chờ Chúa trong kiên nhẫn, dẫn dắt chúng con và chỉ cho chúng con biết con đường hướng về Đêm thánh Giáng Sinh ở Bê-lem được sống động và tích cực.
đllc Gío'an Phao'lô II
Báo Oss., Ròm., ấn bản Pháp ngữ
|
Suy Niệm 29 Lm. Vũ Khiêm Cung, CRM
×
Con Chúa sinh bởi Người Nữ Lm. Vũ Khiêm Cung, CRM
Người Việt Nam xưa kia thuộc bộ lạc Bách Việt, sinh sống ở miền Bắc Trung Hoa, sau tràn xuống phía Nam sông Hồng Hà, lập nên bộ Lạc Việt tức là nước Việt Nam ngày nay. Đứng đầu bộ tộc Lạc Việt là Lạc Long Quân (nghĩa là con rồng biển) thuộc họ Hồng Bàng. Lạc Long Quân lấy bà Âu Cơ (là nàng tiên giáng thế), sinh ra 100 người con. Sau này 50 người con theo mẹ lên núi làm rẫy và 50 người con theo cha xuống biển lập nghiệp. Lạc Long Quân phong người con trưởng làm vua nước Văn Lang lấy hiệu là Hùng Vương. Họ Hùng Vương truyền ngôi đến đời thứ 18. Là người Việt Nam, chúng ta thuộc giòng giống Rồng Tiên, ta phải sống sao cho xứng với danh giá của tổ tiên mình.
Trong bài đọc 2 thánh Phao lô nói "Khi đã tới giờ viên mãn, Thiên Chúa sai Con của Ngài sinh ra bởi một phụ nữ" (Gal 4:4). Bà Âu Cơ thuộc hàng tiên giới, tức bởi trời. Nhưng đây chỉ là dã sử mà thôi. Còn Chúa Giê su là ngôi hai Thiên Chúa, có thực chứ không phải dã sử. Ngài sinh ra tại Belem thuộc nước Do Thái cách đây hơn 2000 năm, dưới chế độ luật, để cứu dân khỏi tội, hầu cho người ta được làm dưỡng tử, được làm con (Gal 4:4-5).
Đó là một sự kiện thực trong lịch sử loài người. Vì Mẹ Maria đã sinh ra Chúa Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa làm Người, nên Mẹ là Mẹ Thiên Chúa. Mẹ là Đấng Đồng Công Cứu Chuộc, vì Người đã cộng tác với Chúa Giêsu trong việc cứu chuộc nhân loại. Nhờ thế, chúng ta được trở lại tình trạng nguyên thủy đã mất do tội lỗi, đó là được làm con Thiên Chúa.
Đức Maria có điạ vị quan trọng trong lịch sử cứu độ. Chức Mẹ Thiên Chúa là một chức vị không thể nào sánh ví, địa vị cao cả trong lịch sử cứu độ. Vì Mẹ là Mẹ Thiên Chúa nên Mẹ được đặc ân Vô Nhiễm nguyên tội và được giữ khỏi mọi tội riêng, được đồng trinh vẹn toàn, là Nữ Vương các thần thánh trên trời, các người lành dưới thế.
Hôm nay toàn thể Giáo Hội long trọng mừng kính lễ Mẹ Thiên Chúa, chúng ta hãy cảm tạ ơn Chúa đã ban cho Mẹ muôn đặc ân cao cả, mà đặc ân cao trọng nhất là được làm Mẹ Thiên Chúa. Theo dã sử, dân tộc Việt Nam đã có một người mẹ hãnh diện là con trời, thì hôm nay sống trong lịch sử cứu độ Kitô giáo, chúng ta hãnh diện có Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa và Mẹ chúng ta. Hãy noi gương Mẹ Maria sống xứng đáng muôn ơn lành Chúa và Mẹ đã ban cho chúng ta.
|
Suy Niệm 30 Sưu Tầm
×
Tín Thác Nơi Mẹ Sưu Tầm
Ðối với Giáo Hội Chính Thống, tước hiệu nổi bật nhất của Mẹ là “Mẹ Thiên Chúa”, trong khi đó đối với Giáo Hội Công Giáo, Mẹ Maria trước tiên là Mẹ của loài người.
Hai khía cạnh này của Mẹ Maria được làm nổi bật qua Phụng Vụ và nghệ thuật của hai Giáo Hội. Một bên những bức ảnh Icone của Giáo Hội Chính Thống làm cho người ta nghĩ đến Ðức Mẹ như một vị thần ngự trị trên Thiên quốc hơn là người phàm. Ðàng khác, trong Giáo Hội Công Giáo các bức tranh và tượng ảnh về Mẹ Maria xem ra nhấn mạnh đến khía cạnh nhân loại của Mẹ. Khía cạnh nhân loại này thường được chọn làm chân dung của Ðức Mẹ. Như vậy, trong việc tôn kính chính thức của Giáo Hội cũng như trong tâm tình của người bình dân, tính siêu việt lẫn nhân trần của Mẹ Maria đều được nêu bật.
Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II trân trọng cả hai truyền thống tôn kính này đối với Mẹ Maria. Ngài kêu gọi Âu châu hãy thở bằng cả hai buồng phổi, một của Ðông phương, một của Tây phương. Một sự dung hòa như thế mới có thể bảo tồn được sự tôn kính đúng đắn dành cho Mẹ Chúa Giêsu.
Trong Phúc âm thánh Luca, thánh sử nói về các mục đồng như sau: “Họ liền hối hả ra đi, đến nơi họ gặp thấy bà Maria cùng với Giuse và Hài Nhi được bọc trong khăn, đặt trong máng cỏ”(Lc 2,16). Theo các nhà chú giải Kinh Thánh thì đây là một cuộc cách mạng thinh lặng. Thật thế, lần đầu tiên trong Kinh Thánh người ta thấy tên của người Mẹ đặt trước tên của người Cha. Ðây không phải là một đoạn tuyệt với truyền thống “trọng nam khinh nữ” của người Do thái, nhưng tác giả muốn sắp xếp như thế để nói lên tầm quan trọng của người phụ nữ là Mẹ Maria.
Trong Phúc âm (Mc 10,14), thánh sử ghi lại thái độ của Chúa Giêsu đối với trẻ em, Chúa Giêsu nói như sau: “Hãy để trẻ em đến với Ta và đừng xua đuổi chúng, vì Nước Trời thuộc về những ai nên giống như chúng. Ta bảo các ngươi, ai không đón nhận Nước Trời như một trẻ em thì sẽ không được vào trong Nước ấy”.
Nhưng nên giống như trẻ em là gì nếu như không phải là quay trở lại với Mẹ, tín thác nơi Mẹ. Một số nhà thần bí trong Giáo Hội xem đây như là một lời khuyến dụ kín đáo của Chúa Giêsu. Phải chăng Ngài chẳng muốn chúng ta tìm đến với Ðấng vì là Mẹ của Con Người, cũng là Mẹ của tất cả mọi người. Dù sao một trong những nghịch lý lớn nhất mà Tin Mừng đề ra là tiến đến trong đời sống thiêng liêng, có nghĩa là quay trở lại với Mẹ. Luật của đời sống thiêng liêng không phải là luật tiến hóa mà là luật của cải hóa.
Các cuộc Ðức Mẹ hiện ra của thời hiện đại đã bắt đầu vào năm 1830, tại một cộng đoàn của Dòng Bác Ái Vinh Sơn tại đường Du Bac ở Paris Pháp quốc, Ðức Mẹ đã hiện ra cho thánh nữ Catherine Labouré và ủy thác cho thánh nữ quảng bá việc tôn kính ảnh Ðức Mẹ hay làm phép lạ. Lời kinh được truyền phải đọc trong việc tôn kính ảnh Ðức Mẹ có nội dung như sau: “Lạy Ðức Maria, là Ðấng đã được cưu mang mà không vướng mắc tội lỗi, xin cầu cho chúng con là những kẻ có tội chạy đến cùng Mẹ”. Nhờ việc này mà giúp cho Giáo Hội định tín về Ðức Mẹ Vô Nhiễm vào năm 1854. Thạât ra, đây cũng chỉ là một tước hiệu mà Ðức Mẹ đã tự xưng khi hiện ra cho Bernadetta ở hang đá Lộ đức nước Pháp vào năm 1858.
Thật thế, nếu Mẹ Maria là tạo vật duy nhất trong nhân loại đã được cưu mang mà không mang tỳ vết của tội lỗi, bởi vì tội Nguyên tổ là một thực tế chứ không phải là một huyền thoại. Vào thời ấy, cùng với những khám phá và tiến bộ trong lãnh vực khoa học, con người thời đại xác tín một cách kiêu hãnh rằng: khoa học, văn hóa và kỹ thuật rồi ra sẽ biến thế giới thành một thứ thiên đàng trần gian, như vậy nó sẽ khử trừ mọi ý niệm về tội Nguyên tổ. Với khả năng vô tận của mình, rồi ra con người sẽ tự cứu lấy mình chứ không cần phải trông chờ có một đấng cứu thế nào cả.
Thế nhưng, lịch sử đã diễn ra không như con người của thời đại mơ tưởng, thứ nhân bản chủ nghĩa chối bỏ cái siêu việt của con người đều dẫn đến sự tự hủy cho con người. Hai trận thế chiến là sự hiện hữu hùng hồn nhất về sự hủy hoại con người.
Như vậy, sứ điệp mà Ðức Mẹ muốn nhắn gởi cho con người thời đại qua các cuộc hiện ra kể từ năm 1830, trước hết là một sứ điệp về chính tội lỗi của con người. Vì thế, việc tôn kính Ðức Mẹ có giá trị giải phóng con người. Dù vậy, Giáo Hội không bao giờ áp đặt việc tôn kính đối với Mẹ Thiên Chúa, nhưng để tùy cảm xúc và sáng kiến của mỗi người tín hữu. Dĩ nhiên, Ðức Giáo Hoàng, hàng Giáo Phẩm, các tác giả về tu đức có thể khuyên nhủ các giáo hữu chạy đến với Mẹ Thiên Chúa bằng nhiều hình thức tôn kính khác nhau.
Dựa trên kinh nghiệm ngàn đời của mình, Giáo Hội khuyên các tín hữu tôn kính Mẹ Maria. Tuy nhiên, Giáo Hội không bao giờ buộc phải tôn kính Mẹ Maria, sẽ không bao giờ Giáo Hội buộc tôn kính các lần hiện ra của Ðức Mẹ, cho dù Giáo Hội công nhận các việc hiện ra đó. Giáo Hội sẽ không bao giờ áp đặt các việc tôn kính như lần chuỗi, đi hành hương như là việc làm cần thiết cho ơn cứu rỗi. Giáo Hội sẽ không bao giờ xem là lạc đạo hay có tội khi một tín hữu không tham dự cuộc rước kiệu Ðức Mẹ, hay một cuộc hành hương đến nơi Ðức Mẹ hiện ra. Giáo Hội sẽ không bao giờ chối bỏ ơn cứu rỗi mà các Giáo Hội khác xây dựng trên niềm tin Kitô của họ, như trong các Giáo Hội Tin lành.
Như vậy, việc tôn kính đối với Mẹ Maria không được nhìn theo phạm trù cần thiết mà là theo phạm trù tự do, không thuộc về lề luật mà thuộc về tình yêu. Chính tính cách tự do ấy lại càng làm nổi bật sự thu hút và những ân huệ đặc biệt của lòng tôn kính đối với Mẹ Thiên Chúa. Mẹ Thiên Chúa xem ra không muốn áp đặt lòng tôn kính dành cho Mẹ, bởi vì Mẹ vốn là người sống âm thầm, Mẹ cất giữ mọi sự và suy niệm trong lòng. Thánh Luca đã hai lần ghi lại như thế trong cùng một chương. Mẹ quả thật nói ít, hay đúng hơn Kinh Thánh nói rất ít về Mẹ, nhưng nhìn cho kỹ thì chính Mẹ lại là người gợi hứng cho Kinh Thánh.
Dĩ nhiên, với sự kín đáo và thinh lặng của Mẹ, các nhà chuyên môn Kinh Thánh đều đồng ý rằng: Các chương nói về đời tư Chúa Giêsu kể từ khi Chúa Giêsu sinh ra thì chính Mẹ là người duy nhất đã biết thời thơ ấu của Chúa Giêsu và kể lại cho cộng đồng tiên khởi. Nhưng vẫn thái độ kín đáo và thinh lặng cố hữu, Mẹ luôn đứng ở đàng sau, chỉ có những ai biết tìm đến và lắng nghe mới có thể nhận ra được sự hiện diện và tầm quan trọng của Mẹ trong Giáo Hội. Ðó chính là ý nghĩa của việc tôn kính Mẹ Maria mà các tín hữu Kitô đã dành cho Mẹ ngay từ thời Giáo Hội sơ khai.
|
Suy Niệm 31 Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm
×
Tâm Tình Hòa Bình (Lễ Ðức Maria Mẹ Thiên Chúa) Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm
Những bài Kinh Thánh chúng ta vừa nghe đọc cho thấy Lễ này có nhiều khía cạnh. Từ ngàn xưa khi mừng Lễ Chúa Giáng Sinh, Dân Chúa vẫn chú tâm đến Ðức Mẹ và không ngớt chiêm ngưỡng khuôn mặt của Người nơi máng cỏ. Có thể nói, Mùa Giáng sinh cũng là mùa lễ Ðức Mẹ. Nhưng riêng ngày 1 tháng Giêng hôm nay, Phụng vụ nhiều khi lúng tún: khi thì chú trọng đến việc cắt bì và đặt tên cho Hài Nhi, khi lại muốn tôn kính đặc biệt Ðức Thánh Mẫu. Ðức Phaolô VI lại thêm cho ngày này một ý nghĩa xã hội và đặt tên là Ngày Hòa Bình Thế Giới. Suy nghĩ của chúng ta có lẽ nên bao gồm cả ba khía cạnh đó để Ngày Lễ hôm nay được cử hành một cách phong phú.
1. Cắt Bì Và Ðặt Tên Cho Hài Nhi
Trong Thánh Lễ Nửa Ðêm Giáng sinh, Phụng vụ đọc cho ta nghe bài Tin Mừng Luca. Tác giả thuật lại câu chuyện Chúa ra đời một cách chính xác khiến ta thấy rõ lịch sử tính của Tin Mừng. Nhưng Luca đã dùng một từ ngữ, mà những người có kiến thức đạo đức nông cạn đã không hiểu gì. Luca nói: Ðức Maria đã sinh con đầu lòng, lấy khăn bọc lại rồi đặt vào máng cỏ. Có người đã nói: vì sao lại nói là “con đầu lòng”? Ðức Maria có sinh người con nào khác nữa đâu! Tốt hơn và chính xác hơn nên nói là “Con Một”. Suy nghĩ như thế cũng đúng thôi, và khoa học đấy,nhưng lại không đạo đức như Luca là một tác giả Sách Thánh. Chữ “Con đầu lòng” dùng trong Tin Mừng gợi lên nhiều âm vang trong Cựu Ước, đặc biệt các đoạn sách liên quan tới việc Chúa đưa dân ra khỏi Aicập. Ngày ấy, thần sứ nhà Trời đã đi qua nước này và giết hết các con trai đầu lòng người Aicập và bỏ qua các con trai đầu lòng người Dothái. Từ đó, cả dân được cứu vớt được coi như con đầu lòng của Chúa và mọi con trai đầu lòng người Dothái phải được hiến thánh cho Ngài để trở thành của Ngài, đến nỗi gia đình phải dâng một đôi chim hay một con chiên nhỏ cho Ðền Thờ để thế lại rồi mới được đem đứa con đầu lòng về lại gia đình.
Vậy, khi dùng từ ngữ “con trai đầu lòng” để nói về Hài Nhi mà Ðức Maria vừa sinh ra, Luca muốn cho chúng ta nhìn thấy ngay Hài Nhi về phương diện đạo đức. Ðây là Hài Nhi thánh, Hài Nhi của dân thánh, Hài Nhi được hiến thánh, là Con của Thiên Chúa. Nhất là Luca đã viết trong bài Truyền tin rằng: Thánh Thần đến phủ bóng trên Ðức Maria; nên Trẻ Người sinh ra sẽ là Ðấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa. Thế nên Luca đã không dùng từ ngữ “Con Một” để nói về Hài Nhi Ðức Maria vừa sinh ra; ông đã dùng từ ngữ “con đầu lòng” để bao trùm máng cỏ trong một bầu khí thánh thiện đạo đức.
Và chúng ta cũng phải nhìn việc cắt bì và đặt Tên cho Hài Nhi trong bầu khí thánh thiện đạo đức ấy. Mọi ý nghĩa tò mò đều không xứng đáng. Người Dothái cử hành ngày thứ 8 này sau khi đứa trẻ sinh ra, một cách thánh thiện lạ lùng. Họ ý thức đâu là buổi lễ liên kết gia đình, dòng dõi họ vào Giao ước; họ được gắn liền với Thiên Chúa để Yavê là Chúa của họ và họ là dân và con của Ngài ở giữa mọi dân khác chỉ là dân ngoại. Gia đình Hài Nhi ở Bêlem còn cử hành ngày hôm nay đạo đức hơn nữa. Vì cả Yuse lẫn Maria sẽ phải đặt Tên cho Con Trẻ là Yêsu, như thiên thần đã dạy. Làm công việc này là vâng theo Ý Chúa, là thực hiện chương trình cứu độ của Ngài. Ngày hôm nay đáng dùng để suy nghĩ về các Ngài và đặc biệt về Ðức Maria.
2. Ðức Maria, Mẹ Thiên Chúa
Còn tước hiệu nào hợp hơn để nói về Ðức Maria trong hoàn cảnh này bằng tước hiệu Mẹ Thiên Chúa? Dĩ nhiên những lạc giáo ở những thế kỷ III-IV đã khiến Phụng vụ nhấn mạnh đến khía cạnh này. Nhưng như vậy cũng chỉ đúng với sự thật thôi! Nhìn Ðức Maria nơi máng cỏ, ai không thấy Người là Mẹ? Và sở dĩ máng cỏ được chúng ta chú ý và các thế hệ loài người nhìn ngắm, là vì Hài Nhi nằm đó không phải là một trẻ thường. Cả Luca, cả Yoan và cả Matthêô chỉ nói về Hài Nhi này như là một Trẻ Thánh. Luca dù tả chính xác câu chuyện Chúa sinh ra với những chi tiết thật cụ thể, vẫn gọi Hài Nhi là “con đầu lòng” như chúng ta đã nói ở trên và vẫn thêm cả một khúc trong bài tường thuật để làm nổi bật tính cách thần linh trong việc Giáng sinh này. Yoan thì rõ ràng xác định: Hài Nhi chính là Ngôi Lời trở thành nhục thể. Và chúng ta cử hành Phụng vụ Giáng sinh để cùng với các thiên thần trên trời thờ lạy người Con mà Chúa Cha vừa sinh ra ở đời. Vậy, Hài Nhi nơi máng cỏ đã là Ðấng Thánh, là Con Thiên Chúa và là chính Ngôi Lời Thiên Chúa hóa thân làm người, thì Ðức Maria, mẹ Người, cũng thật là Thánh Mẫu và là Mẹ Thiên Chúa.
Ðừng sợ tước hiệu này xúc phạm đến Thiên Chúa Cao Cả. Ngài đã chấp nhận giáng trần để trở nên như chúng ta mọi đàng ngoại trừ tội lỗi; Ngài chấp nhận mọi luật lệ sinh sống, đau khổ và tử nạn, thì tại sao ta lại sợ nói phạm đến Ngài khi bảo Ngài là con của một người mẹ? Ngài đã gọi chúng ta là anh em và muốn là bạn hữu của mọi người; và chúng ta lấy đó làm vinh dự, thì chúng ta càng không có lý khi không muốn tuyên xưng Ðức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Suy nghĩ kỹ, chúng ta chỉ có thể thấy đây là một vinh dự lớn lao cho một người trong loài người chúng ta. Chúng ta phải hân hoan chúc tụng Mẹ là Ðấng đầy ơn phúc. Chúng ta cảm mến Mẹ và nhất là muốn theo gương Mẹ để có tâm hồn, tâm tình và thái độ đạo đức như Mẹ.
3. Tâm Tình Hòa Bình
Trong bài Tin Mừng Luca hôm nay, Mẹ hiện ra như là một từ mẫu ghi sâu tất cả những điều về Con và suy đi nghĩ lại trong lòng. Chúng ta quen nhìn thái độ ấy một cách đạo đức và có lý để coi Mẹ như là gương mẫu về sự chiêm niệm và cầu nguyện. Nhưng chúng ta cũng đừng quên nhìn thái độ ấy một cách tự nhiên hơn, để thấy Ðức Maria là một bà mẹ như hết mọi bà mẹ, ghi nhớ tất cả những điều gì về Con và gẫm suy những điều đó trong lòng. Quả thật, người mẹ nào không tự hỏi về tương lai của đứa con? Bất cứ dấu hiệu nào cũng khiến người mẹ suy nghĩ. Ðức Maria không suy đi nghĩ lại sao được khi thấy các mục đồng đến thăm và kể chuyện về việc các thiên thần hiện ra ban đêm? Và Người có thể nào không suy nghĩ về tiếng “Yêsu” mà từ nay theo lệnh sứ thần, Người sẽ dùng để gọi Con mình. Chính sứ thần đã giải thích trong buổi Truyền tin: “Bà sẽ gọi Con Trẻ là Yêsu. Người sẽ làm lớn và được gọi là Con Ðấng Tối Cao. Chính Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vua Ðavit cha Người và Người sẽ cai trị trong nhà Yacob đến muôn đời”. Những lời đó không đơn sơ dễ hiểu. Nội dung chắc chắn vô cùng phong phú. Maria dĩ nhiên phải suy đi nghĩ lại.
Hôm nay các mục đồng lại kể thêm về các lời của thiên sứ. Hài Nhi trong máng cỏ sẽ là Cứu Thế, nên các thiên thần đã xướng ca: Vinh quang Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người Chúa thương. Như vậy, Yêsu Con của Ðức Maria thực hiện lời tiên tri hứa cùng nhà Ðavít. Người sẽ đem lại hòa bình cho Dân Chúa và vinh quang cho Chúa Trời. Ðức Maria hôm nay gẫm suy những điều ấy. Và Ðức Phaolô VI khuyên ta hằng năm hãy dùng Ngày Ðầu Năm Dương lịch này để suy nghĩ về hòa bình thế giới.
Chúng ta đã ra khỏi những năm chiến tranh. Chúng ta vẫn còn nhiệm vụ phải suy nghĩ về hòa bình. Hòa bình không phải chỉ là hết chiến tranh. Hòa bình còn là xây dựng bình đẳng, ấm no, thịnh vượng, hạnh phúc nữa. Phần tích cực có thể nói còn gồm nhiều mặt hơn phần tiêu cực là hết chiến tranh. Vả lại hết chiến tranh cũng phải là đã hết những hậu quả của chiến tranh là những thương tích, đổ vỡ vật chất và tinh thần. Chúng ta phải cải tạo cái cũ, xây dựng cái mới. Chúng ta còn có nhiệm vụ quốc tế và công giáo. Hòa bình hạnh phúc phải là khí thở của mọi người trên thế giới.
Chúng ta đóng góp được gì? Hãy suy nghĩ hòa bình như Ðức Maria hằng suy đi nghĩ lại. Người suy nghĩ về Danh “Yêsu”, có nghĩa là Cứu Thế. Danh đó phải được kêu cầu trên con cái loài người, như bài sách Dân số nói, để phước lộc được đổ xuống trên các dân. Và phước lộc phong phú cụ thể là chính Thánh Thần yêu mến mà Thiên Chúa muốn đổ xuống lòng mọi người, như lời thư Galát nói, để khi chúng ta gọi Chúa là Cha thì thấy mình là anh em với nhau.
Nhưng làm sao có thể kêu cầu Danh Chúa Yêsu mang lại hòa bình như thế, khi không bắt chước Ðức Maria mà kêu Danh ấy với tất cả lòng yêu mến dấn thân. Mỗi lần Ðức Maria gọi tên Yêsu, Người muốn hiến thân để cùng cứu thế. Ðiều đó thật chắc chắn! Ðiều đó nhắc nhở ta là Kitô hữu phải hiến thân cứu đời, tức là quên mình để sống vì hạnh phúc của xã hội. Yêu hòa bình thì phải xây dựng công bình bác ái; phải kiến tạo bình đẳng, ấm no, thịnh vượng, hạnh phúc; phải dứt khoát với mọi hình thức vinh thân phì gia, sống chết mặc bay miễn là cái tôi ích kỷ được thỏa mãn. Như vậy, hòa bình đòi phấn đấu và đấu tranh để tiêu diệt các xấu và phát triển cái tốt. Rất nhiều công tác cụ thể đang ở tầm tay mỗi người. Hết thảy chúng ta hãy tích cực để chúng ta không chỉ nói hòa bình nhưng muốn xây hòa bình.
Chúng ta sẽ đáp lại nguyện vọng của Ðức Phaolô VI khi đặt tên cho ngày hôm nay là Ngày Hòa Bình Thế Giới. Chúng ta sẽ bắt chước Ðức Maria, Mẹ Thiên Chúa, hôm nay suy nghĩ về Danh Ðức Yêsu, muốn hiến thân cùng cứu thế với Người. Chúng ta sẽ thể hiện ý nghĩa của mầu nhiệm Thánh Thể sắp cử hành, khi đem thân, đem máu mình ra để hủy diệt cái cũ, xây dựng cái mới cho muôn người được cứu độ.
|
Suy Niệm 32 Chú giải của Noel Quesson
×
THÁNH MARIA, ĐỨC MẸ CHÚA TRỜI Chú giải của Noel Quesson
Ngày 1 tháng 1, trong khi chúng ta chúc nhau "năm tốt lành", Giáo Hội mừng lễ Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa. Và chúng ta ước nguyện đi xa hơn vào huyền nhiệm Đức Kitô. Bởi vì mỗi lần Giáo Hội nói với chúng ta về Đức Maria, chính là để nói về Đức Giêsu. Chúng ta có khẳng định quá đán, khi chúng ta nói, trong kinh Kính Mừng Maria: Thánh Maria, Mẹ Thiên Chúa? phải chăng một tạo vật có thể là mẹ Thiên Chúa? Phải Chăng Thiên Chúa lại sinh ra từ một người đàn bà, như Thánh Phaolô nói trong bài đọc thứ hai hôm nay (Gl 4,4).
Đến nơi, họ gặp bà Maria, ông Giuse, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ.
Các mục đồng hết sức đơn thành, ở những vùng sườn đồi Bêlem, chạy vội đến để xác minh sứ điệp mà thiên thần truyền cho họ: "một Đấng Cứu độ được sinh ra cho các ngươi; Người là Đức Kitô và là Chúa". Chính là Hài Nhi mang ba danh hiệu ấy mà họ tìm đến. Ba danh hiệu trang trọng, thuộc về Thiên Chúa: Đấng Cứu Độ, Đấng chịu Xức Dầu, Đức Chúa.
Như vậy, điều đáng chú ý nhiều hớn nữa là Luca dường như xem thường Hài nhi, khi trưng dẫn Người cuối cùng; và cũng đặt người đàn ông, ông Giuse, xuống thứ hai vào thời mà người đàn bà không có giá trị ngang bằng. "Họ khám phá ra Maria". Trong cái viễn tượng đảo lộn này, có một cuộc cách mạng thần học và nhân bản nho nhỏ.
Maria! Danh hiệu của bà là Mẹ Thiên Chúa đã chỉ được xác định ở Công đồng Êphêsô năm 430. Nhưng từ rất lâu, lòng sùng kính bình dân đã dám gọi Đức Maria là "theotokos" "Mẹ Thiên Chúa". Và vào thời đó khi các giám mục chính thức công nhận danh hiệu này, thì cả thành phố Êphêsô hoan hỉ và xuống phố lúc nữa đêm để rước đuốc mừng lễ. Cái mà các nhà thần học tìm kiếm, về mặt trí thức, từ bốn thế kỷ qua, thì về bản chất nó đã được sống nơi tất cả những người chỉ biết đơn sơ lắng nghe Tin Mừng. Các Công đồng chỉ có vai trò xác định bằng ngôn ngữ khoa học những điều đã gợi ra từ trong Tân ước. Ngoài ra còn phải đợi đến hai mươi năm nữa, thì Công đồng Can-xê-đoan sau cùng năm 451 mới xác định huyền nhiệm của Đức Giêsu và Đức Maria. Đây là văn bản tín điều, văn bản nổi tiếng nhất của lịch sử các Cồng đồng: "Tất cả, chúng tôi đồng lòng tuyên xưng, một Chúa Con độc nhất và luôn luôn là một. Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, hoàn toàn về thiên tính, hoàn toàn về nhân tính, Thiên Chúa thật và người thật, được cấu thành bới một linh hồn có lý trí và một thân xác, đồng bản tính với Chúa Cha do thiên tính, đồng bản tính với chúng ta bởi nhân tính, tất cả đều giống như chúng ta trừ tội lỗi (Dt 4,15), được sinh ra bởi Chúa Cha, trước các thế kỷ theo thiên tính, được sinh ra trong những ngày cuối cùng này vì chúng ta và để cứu độ chúng ta, bởi Đức Maria, Mẹ trinh nguyên của Thiên Chúa theo nhân tính: một và cùng một Chúa Ki tô duy nhất. Con độc nhất, mà chúng ta phải nhận biết trong hai bản tính không lẫn lộn, không thay đổi, không phân ly, không tách biệt". Đấy là tấm giấy chứng minh kỳ diệu và rõ rệt về Đức Giêsu Nagiarét, và Mẹ Người Đức Maria.
Họ tìm ra Bà Maria và ông Giuse cùng với Hài nhi đặt nằm trong máng cỏ.
Cần phải lặp lại những từ này sau khi đã nghe xác định trang trọng về Đức tin. Như thế chúng ta hiện đứng trước một trong hai phương diện của Đức Giêsu, nhân tính thực của Người. Các mục đồng trông chờ tìm thấy một Đấng Cứu độ Kitô Chúa (Lc 2.11), và chỉ tìm thấy có thế: một Hài nhi trong chuồng bò lừa, đặt trong máng cỏ dành cho súc vật, một Hài Nhi trên nệm rơm! Thiên Chúa lập tức tự mạc khải như một vị hoàn toàn khác: thoạt đầu, Người khác với cái mà ta tưởng tượng về Người. Người đã hiện ra như quá gần gũi, ngay từ đầu. Người mang tính người đến nỗi nhiều người không nhận ra Người, chính vì Người bị che khuất đối với người thân tín nhất của nhân loại chúng ta.
Vâng, Giao ước giữa Thiên Chúa và con người mà Cựu ước, Tân ước nói tới, ngay từ đầu, không huyênh hoang, đã nói với chúng ta là nó đi đến đâu: hợp nhất không thể xé bỏ được, không lẫn lộn, không phân ly, không tách biệt.
Tất cả thái độ tôn giáo được hâm chứa như mầm mống trong điều mạc khải này: người ta không thể miệt thị vật chất, thân xác, từ khi Thiên Chúa "nhập thể" trong cung lòng trinh nữ Maria. Không có cái gì là phàm tục. Tất cả đều trở nên linh thánh, nghĩa là đôi khi hoàn toàn "nhân bản" và hoàn toàn "thiên bản": lớn lên chín tháng trong bụng mẹ, sinh ra, ngủ nghỉ, ăn uống, học đi và tập nói, chữa lành bệnh nhân, lên tiếng công khai, yêu mến bạn bè, thức dậy sớm ban sáng để cầu nguyện, chịu đau đớn, chết,... những thực tại nhân thiên bản những thực tại linh thánh. Và Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, thì giống như một bảo đảm cho sự kết hợp không thể phân ly của Thiên Chúa và con người trong bản vị độc nhất của Đức Giêsu.
Thấy thế, họ liền kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này.
Điều họ đã được loan báo, chính là "một Đấng Cứu Độ, được sinh ra cho các anh, người là Chúa Kitô. Họ đơn sơ đến nói sứ điệp của họ, tức là những lời nói mà họ nghe thấy. Các họa sĩ thuộc mọi thời đại đã diễn dịch câu nói Tin Mừng này khi trưng bày một bức tranh "Sự thờ kính của các mục đồng". Thực sự, đúng hơn các mục đồng đã giảng một bài cho Đức Maria, bằng cách nói Tin Mừng cho bà, tin lành mà họ nhận được. Bây giờ, trong câu này chúng ta thấy có phương diện thứ hai của Đức Giêsu, thiên tính đích thực của người: về Hài nhi này, các thiên thần đã nói với chúng ta rằng:
Người là Đức Kitô và là Chúa!". Đó là một tuyên xưng đức tin và từ đó đến thờ kính thì không xa: các bức tranh của các họa sĩ không lầm lần.
Nghe các người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên. Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng.
Ngôn từ Hy Lạp của Luca còn mạnh mẽ hơn nhiều mọi người ai cũng lấy làm lạ lùng. Thế nhưng, có cần phải thấy một đối lập mà Luca muốn trình bày giữa thái độ tổng quát và thái độ của Maria chăng? Quả thực đúng là ông chỉ nhấn mạnh đến cách hành sử của bà thôi: Bà không chỉ lạ lùng, mà suy niệm.. Dù không hiểu nhiều hơn các mục đồng về huyền nhiệm xảy đến cho mình, phải chàng người ta không thể nghĩ rằng từ đáy lòng mình Đức Maria nói lại tiếng xin vâng của đức tin trước sự mới lạ bất ngờ của Hài nhi này sao? Luca không ngừng tôn vinh giá trị của Maria.
Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ.
Chúng ta luôn luôn cố giản lược huyền nhiệm về Đức Giêsu, bằng các đến giản hóa đi, Hoặc là người ta nhân bản hóa Đức Giêsu khi chỉ nhìn thấy người là một người có thiên tài, hoặc người ta linh thiêng hóa người bằng cách chối từ những khuyết điểm trong nhân tính của Người. Chính các mục đồng, những con người đơn sơ, đã trông thấy và đã nghe thấy. Họ đã xem thấy một nhân tính hoàn toàn bình thường, và nghe thấy một sứ điệp rất phi thường. Và họ không chỉ muốn dừng lại ở những dáng vẻ bên ngoài: họ tôn vinh và ca tụng Thiên Chúa.
Khi Hài Nhi được đủ tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ cắt bì, người ta đặt tên cho Hài Nhi là Giêsu
Hài nhi Bêlem là một người thực bé mọn, gắn liền với một truyền thống, một văn hóa và hệ thống tập tục. Đó là một bé trai, nhời được ghi dấu vào xác thịt dành cho tất cả những người nam của dân tộc này. Vâng, một nhân tính thực sự mà trước nó người ta không thể không thấy được. Nhưng tên của trẻ thơ này mang những vấn đề mới về căn tính của cậu: tại sao di cư phải đặt cái tên Thiên Chúa Cứu Độ, Yeshoua, Giêsu? Tại sao?
Đó là tên mà sứ thần đã đặt cho Người trước khi Người được thụ thai trong lòng mẹ.
Theo Luca, việc đặt tên này chỉ là nhột cơ hội bổ sung để làm nổi bật Maria: tác giả nhấn mạnh rằng Maria, Mẹ Người, đã nhận tên con mình "trước khi Người được thụ thai trong lòng".
Công đồng Vatican II, tiếp theo một truyền thống lâu dài của Giáo Hội, đã trình bày Đức Maria như một gương mẫu của Giáo Hội, người đầu tiên trong các tín hữu. Và trong trang Tin Mừng này, chúng ta thực sự vừa mới nhận ra rằng bà là người đầu tiên đón nhận Lời Chúa và suy niệm trong lòng mình... và bà là người đầu tiên có lời tuyên xưng cơ bản về lòng tin của chúng ta: Thiên Chúa Cứu Độ!
Trong ngày đầu tiên của năm mới, tất cả sự mới mẻ của niềm tin Kitô giáo được Đức Maria nhắc lại cho chúng ta. Sự tân kỳ của Đức tin của các Kitô hữu, chính là không phải chỉ tin vào Thiên Chúa. Điều đó, phần đông mọi người vẫn thế, nhất là những người theo một trong những tôn giáo lớn trên thế giới: và chúng ta nghĩ đến Do Thái giáo, Hồi Giáo, và biết bao Tôn Giáo hữu linh. Đặc tính riêng biệt của người Kitô hữu, chính là tin vào sự nhập thể của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô. Sự tôn sùng Đức Maria chỉ làm cho chúng ta nhớ lại điều đó.
|
Suy Niệm 33 Lm Giuse Nguyễn hưng Lợi DCCT
×
MARIA, MẸ THIÊN CHÚA, tước hiệu tuyệt vời Lm Giuse Nguyễn hưng Lợi DCCT
Lc 2, 16-21
Mỗi người đều có cha có mẹ. Đó là nguồn cội của con người. Chim có tổ. Nước có nguồn. Con người phải có tổ ấm, phải có gia đình. Chúa Giêsu khi tới trần gian này, cũng không muốn sống ngoài định luật của con người. Ngài cũng có mẹ, có cha. Đó là tính cách rất người của Chúa Giêsu. Chúa không muốn trở thành một vị tiên giáng trần hay một Phù Đổng Thiên vương vươn vai rồi lớn lên hay như một vị khác thường từ trời giáng thế. Chúa đã chọn con đường bình thường như mọi người là có một gia đình để sinh ra. Tuy nhiên, Mẹ Maria, thân mẫu của Chúa Giêsu đã được chọn lựa giữa muôn muôn người nữ. Mẹ đã khấn giữ mình đồng trinh, nghĩa là không sinh con, nhưng điều gì con người không làm được đối với Thiên Chúa lại trái ngược. Mẹ Maria đã cưu mang Chúa Giêsu bởi phép Chúa Thánh Thần và như thế, ngay khi Mẹ được bà thánh Anna cưu mang, Mẹ đã được hiến thánh, dành riêng cho Thiên Chúa. Nên, Mẹ đã được Thiên Chúa ban cho nhiều đặc ân mà không người nào trên trần gian có thể có được. Mẹ đã được đặc ân vô nhiễm nguyên tội, được diễm phúc làm Mẹ Thiên Chúa.
MARIA, MẸ THIÊN CHÚA: Với muôn vàn tước hiệu Giáo Hội và nhân loại tặng ban cho Đức Mẹ, chắc chắn danh hiệu Maria, Mẹ Thiên Chúa là một đặc ân vô cùng cao quí không một ai trên thế gian này được diễm phúc như Mẹ. Vâng, lời bà Élisabét nói với Mẹ là một xác nhận rõ ràng Maria thật có phúc:" Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa viếng thăm tôi". Diễm phúc ấy quả là một ân thưởng lớn lao, quí giá Thiên tặng ban cho Mẹ Maria:" Phúc cho lòng dạ đã cưu mang Con Thiên Chúa". Tước hiệu Mẹ Thiên Chúa vào thế kỷ thứ V đã gặp khó khăn khi giáo chủ Nestôriô chống đối, nhưng công đồng Êphêsô với quyền chủ toạ của thánh Cyrillô, tuyên bố cất chức giáo chủ Nestôriô và đánh đổ lạc thuyết của Ông. Công đồng Êphêsô đã tuyên xưng:" Đức Trinh Nữ Maria là Mẹ Thiên Chú, bởi vì Người cũng đã thực sự sinh ra Đấng-Thiên-Chúa-làm người". Maria được Thiên Chúa tuyển chọn cách hết sức đặc biệt, nên Mẹ được những ơn cao quí nhất mà nhân loại không ai có được. Mẹ xứng đáng mang tước hiệu Mẹ Thiên Chúa. Mẹ đã lắng nghe, chiêm ngưỡng Con Thiên Chúa trong biến cố giáng sinh và Mẹ đã suy đi nghĩ lại trong lòng. Mẹ đã hoàn toàn từ bỏ đễ chìm lắng tâm hồn trong sự cầu nguyện và trở nên hoàn toàn nghèo khó để chiêm ngưỡng Con Thiên Chúa trong sự tin tưởng và phó thác.
MARIA, NỮ VƯƠNG HÒA BÌNH: Ngày hôm nay ngày đầu năm mới dương lịch, Đức Thánh Cha Phaolô VI đã chọn làm ngày hòa bình thế giới. Khi chọn lễ Mẹ Thiên Chúa làm ngày cầu hòa bình, Đức thánh Cha kêu gọi nhân loại hãy sống an bình, sự bình an của Chúa Hài Đồng ban tặng ngày Ngài đản sinh dưới thế mà các thiên thần loan báo:" Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm"(Lc 2, 14 ) là điều cần thiết nhất cho mỗi người, cho thế giới. Hòa bình trong tâm hồn là điều kiện tiên quyết để lãnh nhận Hài Đồng Giêsu. Hòa bình là quà tặng quí giá nhất Thiên Chúa tặng ban cho nhân loại:" Ta để lại bình an cho các con Ta ban bình an cho các con". Hòa bình bắt đầu từ bên trong tâm hồn. Con Thiên Chúa đến để ban cho nhân loại sự an bình đích thực. Mẹ Maria là Nữ Vương hòa bình,nên hòa bình của con người, của tâm hồn mỗi người nằm trong tay Mẹ. Mẹ sẽ ban phát sự an bình ấy cho nhân loại nếu con người biết mở lòng ra, cải thiện và sám hối làm hòa với Thiên Chúa và với anh em.
Như Mẹ Maria, nhân loại sẽ có sự an bình nếu họ biết noi gương bắt chước Ngài mà lắng nghe, suy niệm và đem Lời ra thực hành trong đời sống.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa, xin cho nhân loại và mỗi người chúng con biết chạy đến với Mẹ xin Mẹ giúp hết thảy mọi người chuẩn bị tâm hồn quay về với Thiên Chúa, Đấng là nguồn Tình yêu, là nguồn Ân Sủng sung mãn để xứng đáng đón nhận hòa bình, đón nhận tình yêu mà Bí Tích Thánh Thể chứa đựng chính Chúa là Vua vũ trụ, Vua Hòa Bình.
|
|